Bất cập trong việc đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Bởi Trần Thu Thủy - 19/12/2019
view 793
comment-forum-solid 0
Việc triển khai Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính trong đó có biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hiện nay tại các địa phương còn nhiều khó khăn, phức tạp, còn tồn tại nhiều vấn đề mang tính đặc thù của từng địa phương cần được tháo gỡ.

Các khó khăn, bất cập cụ thể 

Về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định.”

Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày 30/10/2016 của Chính phủ (sau đây gọi tắt là Nghị định 136) bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đã quy định chi tiết hơn về các đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, theo đó, 3 trường hợp bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm:

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn hai năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn một năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy.

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.

Theo Điều 29 Luật phòng chống ma túy (Văn bản hợp nhất) ngày ngày 23 tháng 07 năm 2013 thì:

Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.

Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900.6198

Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tự nguyện hoặc được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.

Việc cai nghiện ma túy đối với người nghiện ma túy quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không coi là việc xử lý vi phạm hành chính.

Luật Phòng, chống ma túy cũng quy định thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với nhóm này là Chủ tịch UBND cấp huyện. Tuy nhiên, tại khoản 1, Điều 96 của Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên và thẩm quyền quyết định là TAND cấp huyện. Do vậy, có áp dụng biện pháp đưa người dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy nữa hay không đến nay còn có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan, gây khó khăn cho các địa phương.

Về lập hồ sơ đối với người nghiện có nơi cư trú ổn định

Nghị định 136 đã “gỡ” được rất nhiều nút thắt cho cơ quan có trách nhiệm lập hồ sơ, như quy định các tài liệu phải có trong hồ sơ cụ thể, rõ ràng hơn, phù hợp với thực tế hơn. Nhưng đây chỉ là phần “ngọn”. Vì, muốn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy thì trước đó họ đã phải được giáo dục tại xã.

Trong khi đó việc lập hồ sơ giáo dục tại xã được quy định tại Nghị định 111/2013/NĐ-CP, ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được coi là giai đoạn “tiền tố tụng”. Nhưng quá trình lập hồ sơ giáo dục tại xã còn rườm rà, qua nhiều khâu và công đoạn, không sát với thực tế, mất nhiều thời gian không đảm bảo được nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính là “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh” và “Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng”.

Về xác định tình trạng nghiện ma túy

Việc xác định tình trạng nghiện ma túy của người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là điều kiện tiên quyết để xem xét có xử lý người sử dụng trái phép ma túy không. Trong giai đoạn lập hồ sơ giáo dục tại xã, cơ quan lập hồ sơ phải xác định tình trạng nghiện ma túy hiện tại của họ. Việc xác định tình trạng nghiện ma túy được thực hiện theo quy định của Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Công an về thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy.

Thông tư số 17/2015 ngày 09/7/2015 quy định thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy đã đưa ra các biểu mẫu và cụ thể hóa cũng như sửa đổi các văn bản về xác định tình trạng nghiện ma túy trước đây để người có thẩm quyền dễ thực hiện hơn. Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc, đó là: nhiều loại ma túy không thuộc nhóm ATS, đặc biệt là Methamphetamin (ma túy đá) và nhóm OPIATS đã được sử dụng ở nước ta song chưa có hướng dẫn chẩn đoán nghiện.

Việc xác định người nghiện không có nơi cư trú ổn định

Trên thực tế có nhiều người nghiện ma túy sống lang thang lúc ở địa bàn xã/phường này, lúc sang địa bàn xã/phường khác (có thể trong cùng địa bàn huyện/quận hoặc khác huyện/quận) nên việc lập hồ sơ quản lý đối với những người nghiện này thường rất khó khăn. Các văn bản pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể như thế nào là không có nơi cư trú ổn định gây lúng túng trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

 

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.36727 sec| 1012.328 kb