Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau. Việc chồng và gia đình chồng ép người vợ phải theo tôn giáo của họ là trái với quy định của pháp luật.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Trần Thị Thu Hoài - Công ty Luật TNHH Everest -Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Quyền tự do tín ngưỡng được quy định tại khoản 1, 2 Điều 24 Hiến pháp năm 2013 như sau “mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong quan hệ vợ chồng nói riêng, Điều 22 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng quy định về việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng như sau: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau”.
Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nguyên tắc bình đẳng như sau: "Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau".
Như vậy, theo quy định của pháp luật, người vợ có quyền tự do quyết định theo hoặc không theo đạo tin lành. Việc chồng và gia đình chồng ép phải theo tôn giáo của họ là trái với quy định của pháp luật. Trong trường hợp này người vợ cần có sự trao đổi, thảo luận để tìm ra tiếng nói chung, giải quyết ổn thỏa mối quan hệ, giải thích, thuyết phục với chồng và gia đình chồng để họ hiểu và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mình.
Mọi người đều được tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng, theo đó pháp luật quy định các hành vi bị cấm như sau: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy ép buộc người khác theo tôn giáo của mình cũng là một hành vi bị cấm, trường hợp nếu việc ép buộc có tính chất nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý hình sự về tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác, cụ thể là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Điều 164 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: "1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) Phạm tội 02 lần trở lên; d) Dẫn đến biểu tình; đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm".
Điều 164 Bộ luật hình sự năm 2015 nêu trên đã quy định 2 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung: Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 01 năm đến 03 năm khi thực hiện hành vi phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng: Phạm tội có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn; phạm tội 02 lần trở lên; phạm tội dẫn đến biểu tình hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Khung hình phạt bổ sung có thể được áp dụng: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm