Khó khăn khi xác định hàng hóa không đảm bảo chất lượng và hàng hóa có khuyết tật

Bởi Trần Thu Thủy - 19/12/2019
view 1014
comment-forum-solid 0

Hàng hóa không đảm bảo chất lượng hay hàng hóa có khuyết tật là một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, khi nào sử dụng cụm từ “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” và khi nào sử dụng cụm từ “hàng hóa có khuyết tất” lại không có sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật.

Sự không rõ ràng trong khái niệm hàng hoá không đảm bảo chất lượng

Tại Điều 630 của Bộ luật dân sự năm 2005 hay Điều 608 của Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến chủ thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường. Mặc dù, Bộ Luật dân sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi chủ thể đó là “Chủ thể khác” nhưng về bản chất thì không thay đổi. Từ đó cho thấy, Bộ luật dân sự chỉ nêu ra hàng hóa không đảm bảo chất lượng nhưng không có tiêu chí để đánh giá thế nào là hàng hóa không đảm bảo chất lượng. Luật quy định chung chung, không cụ thể và không đưa ra được tiêu chí để áp dụng. Để hiểu được thế nào là hàng hóa không đảm bảo chất lượng thì không tìm ra một định nghĩa cụ thể, không một cuốn sách, không một quy định và không có bất cứ một tác giả nào đề cập đến vấn đề này mà chỉ bắt gặp những khái niệm mang tính đơn lẻ.

Chất lượng là một khái niệm quen thuộc trong đời sống tất cả mọi người, người ta có thể đánh giá qua nhiều tiêu chí khác nhau là khả năng sử dụng hay khả năng hưởng dụng của sản phẩm. Ngày nay, chất lượng sản phẩm hàng hóa không những là thước đo quan trọng khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp mà còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Theo nghĩa thông thường hiện nay thì chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của vật. Như vậy, chất lượng chỉ sự tốt hay xấu của một sản phẩm hàng hóa.

Theo quy định tại Điều 432 của Bộ luật dân sự năm 2015 chất lượng của tài sản được quy định như sau: Chất lượng của tài sản mua bán do các bên thoả thuận. Trường hợp tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định thì thỏa thuận của các bên về chất lượng của tài sản không được thấp hơn chất lượng của tài sản được xác định theo tiêu chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật hành chính gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Khi các bên không có thoả thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố, quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề.

Trường hợp không có tiêu chuẩn về chất lượng của tài sản đã được công bố, quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiêu chuẩn ngành nghề thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Mặc dù, tác giả đang xét đến giao dịch dân sự ngoài hợp đồng nhưng với quy định trên cho thấy dù quan hệ dân sự đó phát sinh trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng thì vấn đề chất lượng được coi như vấn đề tiên quyết được đem ra đánh giá giá trị của một hàng hóa nhất định. Do đó, chất lượng có vai trò quan trọng trong việc giao kết hợp đồng và mua bán. Tuy nhiên, chất lượng hàng hóa trong trường hợp này do các bên thỏa thuận nhưng việc thỏa thuận chất lượng không được thấp hơn chất lượng mà các bên công bố hoặc là quy định của nhà nước. Điều luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ bên mua trong việc xác định chất lượng tài sản mua bán đồng thời ràng buộc nghĩa vụ đối với bên bán.

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay buôn bán, Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định “hàng hóa không đảm bảo chất lượng” và không giải thích gì thêm làm cho người đọc không hiểu hoặc hiểu theo định nghĩa riêng của mình. Do đó, dù là phân thành những khái niệm đơn lẻ cũng không thể nào hiểu được như thế nào là hàng hóa không đảm bảo chất lượng, văn bản pháp luật không quy định dẫn đến mỗi người có một cách nhìn chủ quan.

Sự không rõ ràng khái niệm hàng hoá có khuyết tật

Khác với Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 không sử dụng cụm từ “hàng hoá không đảm bảo chất lượng” mà đề cập thẳng đến “hàng hóa có khuyết tật”. Theo khoản 3 Điều 1 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định “Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho người tiêu dùng”. Hàng hóa có khuyết tật bao gồm: Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật; Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển, lưu giữ; Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng.

Không những từ trong định nghĩa mà trong việc quy định vấn đề bồi thường thiệt hại cũng có một sự bất hợp lý. Nếu như Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định chủ thể kinh doanh hàng hóa không đảm bảo chất lượng thì phải bồi thường thì Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng.

Như vậy, hàng hóa có khuyết tật và hàng hóa không đảm bảo chất lượng không giống nhau và ngữ nghĩa của hai cụm từ “Khuyết tật” và “Không đảm bảo chất lượng” cũng không đồng nhất với nhau. Điều này cho thấy, có một sự không thống nhất giữa Bộ Luật dân sự năm 2015 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
1.60335 sec| 1017.063 kb