Vi phạm hành chính và tội phạm có gì khác nhau?

Bởi Trần Thu Thủy - 16/12/2019
view 1094
comment-forum-solid 0
Trong thực tế, đối với một số hành vi cụ thể, ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm rất mong manh, khó xác định. Nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này thì rất dễ dẫn đến trường hợp hình sự hóa hành chính hay hành chính hóa hình sự.

Về khái niệm

Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC) định nghĩa vi phạm hành chính: “là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.

Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) định nghĩa tội phạm: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

Về các dấu hiệu cấu thành

Thứ nhất, mặt khách quan:

Về mức độ thiệt hại: Mức độ gây thiệt hại biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như: Giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng hóa vi phạm, mức độ thương tật… Căn cứ vào các dấu hiệu này, có thể phân biệt được ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm.

Về số lần vi phạm: Nhiều trường hợp bị coi là tội phạm khi đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi đã thực hiện. Hiện nay, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có 75 tội có cấu thành “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.

Về công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm: Đây cũng được coi là căn cứ để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm.

Thứ hai, mặt chủ quan:

Do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của từng trường hợp lỗi là khác nhau, hơn nữa, tội phạm là loại vi phạm pháp luật bị áp dụng chế tài nặng nhất nên tại Điều 10 và Điều 11 Bộ luật hình sự quy định 04 hình thức lỗi của chủ thể để giúp giải quyết chính xác các vụ án hình sự:

Cố ý trực tiếp là trường hợp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Cố ý gián tiếp là trường hợp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Vô ý vì quá tự tin là trường hợp: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Vô ý do cẩu thả là trường hợp: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Vi phạm hành chính chỉ quy định hai hình thức lỗi là cố ý và vô ý, không có sự phân biệt cố ý trực tiếp hay gián tiếp, vô ý vì quá tự tin hay do cẩu thả.

Thứ ba, chủ thể:

Chủ thể thực hiện vi phạm hành chính bao gồm cá nhân và tổ chức; chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là cá nhân và pháp nhân thương mại.

Thứ tư, khách thể:

Khách thể của vi phạm hành chính và tội phạm được mô tả như hai vòng tròn giao nhau, dù khá lớn nhưng vẫn tồn tại những quan hệ xã hội, vi phạm nhiều lần cũng không chuyển hóa thành tội phạm.

Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900.6198

Về chế tài xử lý

Vi phạm hành chính bị xử lý bằng các chế tài hành chính; tội phạm hình sự bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Do vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn so với tội phạm nên các hình thức xử phạt hành chính cũng ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt áp dụng đối với tội phạm.

Bên cạnh đó, do tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm nghiêm trọng hơn nên theo quy định của pháp luật, án tích của một người bị ghi vào lý lịch tư pháp của người đó. Đối với vi phạm hành chính, do tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn nên việc xử phạt vi phạm hành chính không bị ghi vào lý lịch tư pháp của người đó.

Về chủ thể có thẩm quyền xử lý

Do đặc thù của vi phạm hành chính diễn ra phổ biến, trên khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội nên chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và xử lý tội phạm cũng rất khác nhau, thể hiện ở chỗ việc xử lý người phạm tội được giao cho một cơ quan duy nhất là Tòa án, còn việc xử lý đối tượng vi phạm hành chính, theo quy định của pháp luật hiện hành, được giao cho rất nhiều cơ quan và người có thẩm quyền ở các ngành, các cấp, trong đó chủ yếu là các chức danh thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Cũng có trường hợp, việc xử phạt vi phạm hành chính được giao cho chức danh thuộc cơ quan khác, ngoài cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Việc xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh thuộc Tòa án chỉ được áp dụng trong phạm vi rất hẹp.

Về trình tự, thủ tục xử lý

Đối với tội phạm, việc xem xét, áp dụng hình phạt do Tòa án thực hiện theo thủ tục tố tụng tư pháp. Đối với vi phạm hành chính, việc xem xét, quyết định chế tài xử phạt do 01 chủ thể là người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt áp dụng. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính phần nhiều mang tính quyền lực đơn phương từ phía cơ quan hành chính nhà nước, dù pháp luật có quy định quyền khiếu nại, khởi kiện của chủ thể bị xử phạt. Điều này xuất phát từ chỗ các chế tài xử phạt vi phạm hành chính có mức độ nhẹ hơn nhiều so với các chế tài hình sự. Chế tài hành chính chủ yếu tác động đến tài sản, vật chất, tinh thần của người vi phạm (cảnh cáo, phạt tiền…), trong khi đó, chế tài hình sự phần nhiều bao gồm những hình phạt liên quan đến tước quyền tự do của người phạm tội.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.18424 sec| 1008.008 kb