Năm 1975, ông A và bà B kết hôn với nhau và có với nhau hai người con là C (1976) và D (1995). Khi kết hôn, tài sản của gia đình ông A để lại làm của hồi môn cho vợ chồng A là 800 triệu. Trong quá trình chung sống, hai vợ chồng làm được thêm căn nhà có giá 1,2 tỉ đồng, một xe ô tô có giá trị 1 tỷ đồng, một sổ tiết kiệm đứng tên bà B có giá trị 700 triệu đồng. Năm 2005, C kết hôn và có người con là E. Năm 2009, ông A chết và không để lại di chúc thì tài sản được chia thế nào? Giả sử trước khi chết, ông A để lại di chúc cho E được hưởng toàn bộ tài sản. Các thành viên khác không đồng ý va kiện ra tòa thì tranh chấp được giải quyết như thế nào?
Trường hợp 1: Việc phân chia di sản trong trường hợp năm 2009, ông A chết và không để lại di chúc.
- Thứ nhất, cần phải xác định tài sản là số tiền 800 triệu do gia đình ông A cho vợ chồng ông A làm của hồi môn là cho cả ông A và bà B hay chỉ tặng cho riêng ông A và có giấy tờ chứng minh đây là tài sản riêng của ông A thì không được tính vào khối tài sản chung của hai vợ chồng ông A, bà B.
- Thứ hai, xác định giá trị khối tài sản chung giữa ông A và bà B như sau:
+ Số tiền của hồi môn 800 triệu xác định như trên.
+ Căn nhà có giá 1,2 tỷ đồng.
+ Xe ô tô có giá trị 1 tỷ đồng.
+ Sổ tiết kiệm đứng tên bà B có giá trị 700 triệu đồng.
Sau khi xác định được khối tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B thì xác định được di sản ông A để lại bao gồm một phần hai khối tài sản chung của hai vợ chồng. Căn cứ Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về việc giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết như sau:
"Điều 66. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
Ngoài phần tài sản của ông A trong khối tài sản chung của vợ chồng, nếu ông A còn tài sản riêng nào khác thì cũng đươc xác định là di sản thừa kế của ông A.
- Thứ ba, trong trường hợp ông A chết và không để lại di chúc thì di sản của ông A được chia thừa kế theo thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
"Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
Như vậy, trong trường hợp ông A chết không để lại di chúc thì di sản mà ông A để lại được chia thừa kế theo pháp luật. Theo đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm bà B, C và D. Toàn bộ tài sản ông A để lại sau khi chết thuộc sở hữu của ông A thì được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cụ thể là chia đều làm ba phần cho bà B, C và D được hưởng di sản thừa kế.
Trường hợp 2: nếu ông A chết để lại di chúc cho E được hưởng toàn bộ tài sản mà các thành viên khác không đồng ý và kiện ra tòa thì tranh chấp được giải quyết như thế nào?
- Ông A chết năm 2009, do đó căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực vào thời điểm năm 2009 quy định về quyền của người lập di chúc như sau:
"Điều 648.Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có các quyền sau đây:
Như vậy, căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về quyền của người lập di chúc nêu trên thì người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, việc ông A để lại di chúc chỉ định E là người hưởng toàn bộ di sản của ông A là hoàn toàn hợp pháp.
- Nếu thời điểm khởi kiện là thời điểm hiện tại thì căn cứ Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như sau:
"Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nêu trên thì người được quyền hưởng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu không được người lập di chúc cho hưởng di sản trong trường hợp của ông A là vợ ông A (bà B). Do đó, chỉ bà B có quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế cho bà B bằng hai phần ba suất của một phần thừa kế theo pháp luật tức là toàn bộ di sản cho ông A chia làm 3 phần theo quy định tại trường hợp 1 nêu trên và bà B được hưởng hai phần ba của một phần ba di sản của ông A. Còn lại tài sản được để lại cho người hưởng di sản thừa kế theo nôi dung của di chúc, trong trường hợp di chúc hợp pháp.
- Căn cứ Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực vào thời điểm năm 2009 quy định về di chúc hợp pháp như sau:
"Điều 652. Di chúc hợp pháp
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm