Nội dung bài viết [Ẩn]
Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Trần Thị Thu Hoài - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Khoản 1 Điều 24 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về thử việc: "1. Người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc".
Như vậy, không có quy định bắt buộc giữa người sử dụng lao động và người lao động phải ký kết Hợp đồng thử việc. Đây hoàn toàn là do sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động với người lao động. Tuy nhiên, khi người lao động làm việc dưới 01 tháng thì không phải thử việc.
Hợp đồng thử việc nếu được các bên thỏa thuận sẽ phải được thể hiện dưới dạng văn bản và có những nội dung về: Thông tin của người sử dụng lao động; Thông tin của người lao động; Công việc và địa điểm làm việc; Mức lương theo công việc hoặc chức danh, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác; Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động;
Khoản 1 Điều 27 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: "Khi kết thúc thời gian thử việc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động. Trường hợp thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng thử việc".
Như vậy, trường hợp khi hết thời gian thử việc nếu người lao động đạt yêu cầu, người sử dụng lao động có nghĩa vụ phải ký kết hợp đồng lao động hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động nếu nội dung thử việc được quy định trong hợp đồng lao động.
Điều 25 Bộ luật lao động năm 2019 quy định: "Thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc một lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây..."
Như vậy đối với mỗi công việc chỉ được thử việc một lần. Người sử dụng lao động sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi yêu cầu người lao động thử việc quá 01 lần đối với một công việc;
Mức lương trong hợp đồng thử việc là do doanh nghiệp và người lao động tự thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương chính thức của công việc đó. Pháp luật không có quy định lương căn bản phải bằng hoặc cao hơn so với mức lương từng vùng nhưng phải lưu ý là mức lương chính thức không được trả thấp hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Nhà nước.
Quý thành viên có thể tham khảo công việc : Mức lương tối thiểu vùng.
Theo Điều 26 Bộ luật Lao động năm 2019, tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do người lao động và người sử dụng thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó. Mức lương chính thức do người sử dụng lao động định đoạt nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Nhà nước.
Năm 2021, mức lương tối thiểu vùng được quy định như sau:
Theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC : “ Điều 25. Khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế …i) Khấu trừ thuế đối với một số trường hợp khác: Các tổ chức, cá nhân trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động (theo hướng dẫn tại điểm c, d, khoản 2, Điều 2 Thông tư này) hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân..."
Theo đó, đối với cá nhân ký hợp đồng thử việc có tổng mức thu nhập từ 2.000.000 đồng/lần trở lên thì doanh nghiệp thực hiện khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho người lao động.
Trường hợp, cá nhân ký hợp đồng thử việc và chỉ có duy nhất 1 nguồn thu nhập thuộc đối tượng phải khấu trừ thuế theo tỷ lệ nêu trên nhưng ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế không vượt quá 108.000.000 đồng thì cá nhân lao động đó làm Bản cam kết 02/CK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư 92/2015/TT-BTC để làm căn cứ tạm thời không khấu trừ thuế TNCN. Cá nhân lao động phải đăng ký thuế và có mã số thuế tại thời điểm cam kết.
(i) Người sử dụng lao động và người lao động ký hợp đồng thử việc
Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định về đối tượng áp dụng: "1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm: a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng".
Điều 26 Bộ Luật Lao động năm 2012, thì nội dung của Hợp đồng thử việc không bao gồm điều khoản về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Như vậy, đối với hợp đồng thử việc thì không phải đóng bảo hiểm xã hội.
(ii) Người lao động không ký hợp đồng lao động, nhưng ký hợp đồng lao động có quy định về thời gian thử việc
Trong trường hợp này, thời gian thử việc được ghi trong hợp đồng lao động mà hợp đồng lao động đó thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì người sử dụng lao động và người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cho cả thời gian thử việc. Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trong thời gian thử việc là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động.
Tuy nhiên Bộ luật lao động mới năm 2019 đã bỏ quy định về hợp đồng mùa vụ do vậy cần có sự điều chỉnh trong quy định về luật bảo hiểm xã hội cho phù hợp.
Theo quy định của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật lao động thì thời gian thử việc của người lao động trước khi giao kết hợp đồng lao động chính thức được tính là thời gian làm việc để hưởng trợ cấp thôi việc.
Tuy nhiên, Nghị định số 148/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/12/2018 xác định: "5. Sửa đổi Khoản 3 Điều 14 như sau: 3. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm trước đó (nếu có). Trong đó: a) Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động theo hợp đồng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà được người sử dụng lao động trả lương theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; thời gian nghỉ hàng tuần theo Điều 110, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật lao động; thời gian nghỉ việc để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian nghỉ việc để thực hiện nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật mà được người sử dụng lao động trả lương; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo Điều 129 của Bộ luật lao động"
Như vậy, với quy định được sửa đổi trên theo Nghị định 148/2018/NĐ-CP thì kể từ ngày 15/12/2018 thời gian thử việc không còn được tính là thời gian công tác, làm việc để hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc cho người lao động sau khi chấm dứt hợp đồng lao động.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm