Thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Bởi Trần Thu Hoài - 12/03/2021
view 375
comment-forum-solid 0
Người lao động cần tuân thủ thời hạn báo trước với người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không có lý do. Bộ luật lao động năm 2019 có hiệu lực đã thay đổi quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Trần Thị Thu Hoài - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198

Người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần lý do nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động

Bộ luật lao động năm 2019 có hiệu lực đã thay đổi quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Pháp luật hiện hành chia làm 2 trường hợp người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:

(i) Không cần lý do nhưng phải báo trước với người sử dụng lao động

Cụ thể Khoản 1 Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019 quy định: "1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau: a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng; d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ".

Theo quy định trên, người lao động có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng vì bất cứ lý do  nào và chỉ cần đảm bảo về thời gian báo trước cho người sử dụng lao động. Tùy thuộc vào loại hợp đồng lao động mà thời hạn báo trước là khác nhau. Quy định này nhằm đảm bảo để người sử dụng lao động có đủ thời gian tìm kiếm nhân sự mới.

Theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012, chỉ có người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn mới được đơn phương chấm dứt HĐLĐ không cần lý do nhưng cũng phải đáp ứng việc báo trước 45 ngày.

(ii) Cần có lý do và không phải báo trước với người sử dụng lao động

Theo Khoản 2 Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019 quy định về người lao động được quyền chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước khi có các lý do sau: 

  • Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;
  • Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này;
  • Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
  • Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
  • Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này;
  • Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
  • Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.

Người sử dụng lao động có thể quy định thời hạn báo trước dài hạn thời hạn báo trước theo quy định của pháp luật không?

Thông báo trước đối với lao động nghỉ việc không có lý do là nghĩa vụ của người lao động để đơn phương chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật. Pháp luật quy định về thời hạn báo trước một mặt bảo đảm quyền lợi của người sử dụng lao động một mặt nhằm hạn chế việc người sử dụng lao động lợi dụng quy định này để quy định thời hạn báo trước dài hơn thời hạn pháp luật quy định.

Do vậy, trong trường hợp người sử dụng lao động vận dụng về thời hạn báo trước này của người lao động và xem đây là nghĩa vụ của người lao động thông qua việc yêu cầu người lao động phải thông báo trước cho người sử dụng lao động một thời gian dài hơn yêu cầu của luật định thì yêu cầu này được xem là đi ngược lại với quy định pháp luật.

Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Trần Thu Hoài

Trần Thu Hoài

https://everest.org.vn/chuyen-vien-tran-thu-hoai "Chuyên viên Trần Thị Thu Hoài tham gia Công ty Luật TNHH Everest từ năm 2020 đến nay. Các vụ án nổi bật Chuyên viên Trần Thị Thu Hoài đã trực tiếp tham gia và hỗ trợ: Thu hồi đất nông nghiệp của các hộ dân tại Cát Hải, Hải Phòng. "

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.19199 sec| 1030.063 kb