Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bởi vợ chồng có mẫu thuẫn trong quản lý tài chính hoặc nhiều lý do khác. Do đó, trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có nhu cầu thì có quyền thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng.
Theo Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, một số vấn đề cơ bản liên quan đến chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được quy định như sau:
Thứ nhất, theo nội dung tại Khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc chia tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo hai như sau:
Thứ hai, về hình thức của thỏa thuận, theo Khoản 2 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 : Thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bắt buộc là văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, theo Khoản 3 Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong trường hợp yêu cầu tòa án giải quyết, việc thực hiện chia tài sản chung của vợ chồng được tiến hành theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Bài tư vấn pháp luật dân sự được thực hiện bởi: Luật gia Nguyễn Văn Hoàng – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Theo Điều 39 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về hiệu lực của việc thỏa thuận chia tài sản trong thời kì hôn nhân:
Cần lưu ý rằng, quyền và nghĩa vụ đối với tài sản giữa vợ chồng và các bên thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực vẫn được bảo toàn đầy đủ hiệu lực pháp lý, ngoại trừ các bên có thỏa thuận khác.
Sau thời điểm văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, việc phân chia các tài sản tiếp theo hình thành sau thời điểm đó cũng là vấn đề cần quan tâm. Một trong số đó là vấn đề tài sản được khai thác từ tài sản riêng sau khi chia tài sản chung của vợ chồng. Về mặt nguyên tắc, hoa lợi (sản vật tự nhiên từ tài sản sinh ra), lợi tức (khoản lợi tài sản mang đến) phát sinh từ tài sản riêng của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng.
Theo Khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ khi vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không được chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Cần lưu ý rằng, trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác, thỏa thuận đó không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.
Theo Điều 41 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, vấn đề chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định như sau:
Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Hình thức thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản bắt buộc phải là văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày thỏa thuận chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33, Điều 43 Luật hôn nhân và Gia đình 2014. Phần tài sản đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận.
Xem thêm:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm