Thu hồi đất tại Cát Hải (Dự án Deep C III): 03 nông dân khiếu nại quyết định bồi thường, hỗ trợ, bao giờ giải quyết?

view 5187
comment-forum-solid 0

Thực hiện Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Dự án Deep C HP III), giá trị 5.400 tỉ đồng (260 triệu USD), Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã thu hồi hàng trăm hecta đất nông nghiệp - nuôi trồng thủy sản - của các hộ gia đình, cá nhân. Điều đáng nói, khi 'doanh nghiệp ngàn tỷ', thì 'nông dân trắng tay': Không còn tư liệu sản xuất; Không được bồi thường về đất; Không được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.

Nhiều hộ gia đình, cá nhân, trong đó có: ông Nguyễn Đức Khoát, bà Ninh Thị Khanh, ông Nguyễn Đức Nhuần, cùng địa chỉ tại Tổ dân phố Lương Năng, thị trấn Cát Hải, huyện Cát Hải đã khiếu nại tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, cho rằng: người bị thu hồi đất đã sử dụng đất nông nghiệp - nuôi trồng thủy sản - liên tục, ổn định trong suốt 30 năm, do đó khi Nhà nước thu hồi đất phải bồi thường về đất; hỗ trợ  đúng quy định.

Các luật sư của Công ty Luật TNHH Everest - đồng hành cùng 'nông dân mất đất': Khẳng định: Người bị thu hồi đất có đủ cơ sở pháp lý để yêu cầu Nhà nước (Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải) bồi thường về đất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đúng quy định của pháp luật đất đai.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng từng chỉ đạo các cơ quan chức năng: Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải, Ban quản lý Khu kinh tế Hải Phòng, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hải Phòng, Thanh tra thành phố Hải Phòng - 'khẩn trương rà soát'. Tuy nhiên, cho đến hết 30/04/2020 (sau 01 năm), người khiếu nại vẫn chưa nhận được Quyết định hoặc phản hồi từ Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng.

Ngày 21/05/2019, 03 hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, bà Ninh Thị Khanh, ông Nguyễn Đức Nhuần, cùng địa chỉ tại Tổ dân phố Lương Năng, thị trấn Cát Hải, huyện Cát Hải gửi khiếu nại (lần thứ hai) tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đối với Quyết định số 541/QĐ-UBND ngày 03/05/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải. Trong đơn khiếu nại, các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh nêu ra ba điểm chính:

Luật sư tư vấn pháp luật đất đai - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài (24/7): 1900 6198 Luật sư tư vấn pháp luật đất đai - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

- Nội dung khiếu nại thứ nhất: về nguồn gốc sử dụng đất, mục đích sử dụng đất và người sử dụng đất tại Đầm Lương Năng.

  • Về nguồn gốc đất Đầm Lương Năng:

Quyết định số 541/QĐ-UBND đã ghi nhận: “Trước năm 1988, đầm Lương Năng có một phần điện tích thuộc địa phận xã Hòa Quang và một phần diện tích thuộc địa phận xã Gia Lộc, huyện Cát Hải. Trong đó:… Diện tích thuộc địa phận xã Hòa Quang: Do UBND xã Hòa Quang quản lý, giao cho tư nhân đầu tư, cải tạo, khai thác; có định mức nộp ngân sách theo kế hoạch hàng năm; có hiệu lực thi hành hết năm 1990” (trang 2).

Người khiếu nại lưu ý về quy định “đất khai hoang” tại Thông tư số 52/2014/TT-BNNPTNT ngày 29/12/2014 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “1- Đất khai hoang: Là đất đang để hoang hóa, đất khác đã quy hoạch cho sản xuất nông nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt” (Điều 2).

Như vậy, nội dung này tại Quyết định số 541/QĐ-UBND thể hiện rất rõ: (1) Trước năm 1988, Đầm Lương Năng là đất “bỏ hoang”, sau đó đã được các hộ gia đình, cá nhân “khai hoang” để sử dụng; (2) Sau năm 1990, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải mới chính thức ban hành các văn bản quản lý đất tại khu vực Đầm Lương Năng (ngày 08/12/1990, Ban Quản lý thầu đầm hồ và ông Nguyễn Văn Trường ký kết hợp đồng sử dụng, quản lý đầm Lương Năng với diện tích 12 ha; ngày 11/4/1991, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải ban hành Quyết định số 136/QĐ-UB về việc giao cho ông Nguyễn Văn Trường quản lý, sử dụng).

  • Về mục đích sử dụng đất Đầm Lương Năng:

Ngày 11/4/1991, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải ban hành Quyết định số 136/QĐ/UB về việc giao khoán đầm nước lợ (Đầm Lương Năng), căn cứ Điều 29, 30 Luật Đất đai năm 1987, giao cho ông Nguyễn Văn Trường - thị trấn Cát Hải được sử dụng 12 (mười hai) hecta Đầm Lương Năng để nuôi trồng hải sản. Kể từ thời điểm đó đến nay, đất tại khu vực Đầm Lương Năng chỉ sử dụng cho mục đích nuôi trồng hải sản (đất nông nghiệp).

  • Về thời điểm các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh sử dụng đất Đầm Lương Năng:

Biên bản làm việc ngày 11/07/2018 giữa đại diện: Đảng ủy, Ủy ban nhân dân thị trấn Cát Hải, Hội đồng tư vấn đất đai thị trấn Cát Hải, Tổ dân phố Lương Năng, lập đã thể hiện rõ: “ông Nguyễn Đức Khoát có mua lại một phần diện tích của ông Trường khoảng năm 1991, 1992. Từ năm 1992 đến năm 2006, ông Khoát vẫn sử dụng ổn định diện tích đã mua của ông Trường từ năm 1991”. Thế nhưng Báo cáo số 108/BC-UBND ngày 02/04/2019 Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải (có sau Biên bản làm việc ngày 11/07/2018) lại ghi nhận nội dung hoàn toàn khác: “Toàn bộ các tài liệu trước năm 1990 đều không thể hiện nội dung các hộ (ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh) có nuôi trồng thủy sản tại khu vực Đầm Lương Năng”.

Nhận định nêu trên của Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh chỉ sử dụng đất Đầm Lương Năng từ năm 2006 là sai sự thực khách quan, làm thay đổi hoàn toàn bản chất thực sự của vụ việc. Các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh đã được chính quyền địa phương công nhận nghề nghiệp: nông dân từ trước năm 1993. Ngoài nghề nuôi trồng thủy sản (sản xuất nông nghiệp), họ không có nghề nghiệp khác; ngoài diện tích đất tại Đầm Lương Năng, họ không được giao đất nông nghiệp khác. Vậy thì, nếu họ không sản xuất nông nghiệp trên Đầm Lương Năng (nuôi trồng thủy sản), không có công việc khác thì họ sinh sống như thế nào từ suốt những năm 1988 đến nay (?).

Việc Ủy ban nhân dân thị trấn Cát Hải, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải không có tài liệu lưu trữ được các tài liệu xác định các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh đã sử dụng đất khu vực Đầm Lương Năng từ trước năm 1993 như thế nào chỉ thể hiện sự thật là cơ quan này đã ‘buông lỏng quản lý’, mà không phải thực tế khách quan rằng: các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh không sử dụng đất Đầm Lương Năng giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2006.

Đến ngày 21/05/2019, các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh đã thu thập hơn 100 chữ ký xác nhận về: Nguồn gốc sử dụng đất, mục đích sử dụng đất và người sử dụng đất tại Đầm Lương Năng, làm căn cứ cho trình bày trong đơn khiếu nại.

  • Tóm lại, người khiếu nại khẳng định:

  1. Việc các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh sử dụng đất khu vực Đầm Lương Năng để nuôi trồng thủy sản trước thời điểm ngày 08/12/1990 mà chưa có quyết định giao đất, hợp đồng cho thuê đất của cơ quan có thẩm quyền là: hoạt động “khai hoang”;
  2. Từ ngày 11/04/1991, đất tại khu vực Đầm Lương Năng được Nhà nước chính thức xác định mục đích sử dụng đất: nuôi trồng thủy sản (đất nông nghiệp), bằng Quyết định số 136/QĐ/UB của Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải;
  3. Có đầy đủ chứng cứ để xác định: liên tục từ năm 1991 (thực tế là trước năm 1988) đến nay, các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, Nguyễn Đức Nhuần, Ninh Thị Khanh đã sử dụng đất tại khu vực Đầm Lương Năng để nuôi trồng thủy sản.

Các hộ dân Cát Hải kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải tạm dừng việc cưỡng chế thu hồi đất tại buổi đối thoại. Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

- Nội dung khiếu nại thứ hai: Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã không giao đất nuôi trồng thủy sản - một loại đất nông nghiệp - cho các hộ gia đình, cá nhân theo quy định  Nghị định số 64/CP.

Nghị định số 64-CP ngày 27/09/1993 của Chính phủ về việc ban hành quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp (Nghị định 64) quy định:

“Hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Toàn bộ đất nông nghiệp đang được sử dụng thì giao hết cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp, trừ đất giao cho các tổ chức, đất dùng cho nhu cầu công ích của xã theo Quy định này” (Điều 1).

“Đối tượng giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài là nhân khẩu nông nghiệp thường trú tại địa phương, kể cả những người đang làm nghĩa vụ quân sự” (Điều 6).

“Đất dành cho nhu cầu công ích của xã được quy định như sau: 1- Căn cứ vào quỹ đất đai, đặc điểm và nhu cầu của địa phương, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định tỷ lệ đất được để cho mỗi xã không quá 5% đất nông nghiệp của từng xã” (khoản 1 Điều 14).

Nghị định số 64-CP và Quyết định số 03/QĐ-UB ngày 04/01/1994 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đều có nội dung về việc: (1) Nhà nước giao toàn bộ đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; (2) Uỷ ban nhân dân xã chỉ được giữ lại không quá 5% đất nông nghiệp dành cho nhu cầu công ích của xã sau khi đã hoàn thành giao đất nông nghiệp (95%) cho hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã không giao đất nông nghiệp nuôi trồng thủy sản cho các hộ gia đình, cá nhân. Về nội dung này, Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã công nhận: “Thực tế có việc Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải không giao, không chia đất nuôi trồng thủy sản cho các hộ gia đình, cá nhân” (Trang 4 - Báo cáo số 108/BC-UBND ngày 02/04/2019 của Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải gửi Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hải Phòng).

  • Tóm lại, người khiếu nại cho rằng:

  1. Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải không giao đất nông nghiệp (đất nuôi trồng thủy sản) mà nhiều lần ký các hợp đồng thuê khoán với các hộ gia đình cá nhân là tiếp tục để các sai phạm về quản lý đất đai (thời kỳ trước) tồn tại.
  2. Các hợp đồng giao khoán ký kết giữa Ủy ban nhân dân thị trấn Cát Hải với các hộ gia đình: ông Nguyễn Văn Trường từ năm 1991 đến 2006 và ông Nguyễn Đức Khoát từ năm 2006 đến năm 2016 cần xác định “vô hiệu” theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật dân sự.
  3. Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải (hiện tại) sau khi phát hiện ra sai sót nêu trên phải điều chỉnh hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân, nhưng Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải không thực hiện việc này dẫn đến việc xác định sai nguồn gốc đất khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất.

- Nội dung khiếu nại thứ ba: người bị thu hồi đất đủ điều kiện để được được hưởng bồi thường về đất, được hỗ trợ chuyển đổi việc làm khi Nhà nước thu hồi đất.

  • Luật đất đai năm 1993:

“Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” (khoản 1 Điều 2).

  • Luật Đất đai năm 2003 quy định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất:

“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất” (khoản 4 Điều 50).

  • Luật đất đai năm 2013 kế thừa quy định của Luật đất đai năm 2003:

“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp” (khoản 1 Điều 75).

“Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật này” (khoản 2 Điều 77).

Như vậy, tuy không được Nhà nước giao đất nông nghiệp (nuôi trồng thủy sản) vào thời điểm sau năm 1993, nhưng căn cứ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh, nhưng các hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993, không có tranh chấp. Căn cứ pháp lý vào quy định tại Khoản 2 Điều 77 Luật đất đai năm 2013, xác định các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã sử dụng đất trước ngày 01/07/2004 và phải được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng.

“Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: (a) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; (b) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; (c) Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở; (d) Hỗ trợ khác” (Khoản 2 Điều 83).

“Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất: 1- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm” (khoản 1 Điều 84).

Như vậy, ngoài bồi thường về đất (khu vực Đầm Lương Năng), các hộ gia đình đủ điều kiện để được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định của pháp luật đất đai.

Việc Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải chỉ bồi thường chi phí đầu tư vào đất (mức 9.600 đồng/m2) căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 47/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ về bồi thường hỗ trợ tái định cứ khi Nhà nước thu hồi đất, Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/06/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Điểm b Khoản 1 Điều 4 Quyết định số 2680/QĐ-UBND ngày 03/12/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, là không chính xác, áp dụng sai quy định của pháp luật.

  • Tóm lại, người khiếu nại cho rằng:

  1. Căn cứ pháp lý vào quy định tại Khoản 2 Điều 77 Luật đất đai năm 2013, các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã sử dụng đất trước ngày 01/07/2004 và phải được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng.
  2. Ngoài bồi thường về đất (khu vực Đầm Lương Năng), các hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, ông Nguyễn Đức Nhuần, bà Ninh Thị Khanh đủ điều kiện để được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định của pháp luật đất đai.

Các Luật sư Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Ba hộ gia đình: ông Nguyễn Đức Khoát, bà Ninh Thị Khanh, ông Nguyễn Đức Nhuần đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết khiếu nại.

  1. Kiểm tra, rà soát xem xét lại tổng thể về nguồn gốc sử dụng đất, mục đích sử dụng đất và người sử dụng đất tại Đầm Lương Năng (khu vực xã Hòa Quang cũ), làm căn cứ xác định sự thật khách quan của vụ việc;
  2. Điều chỉnh lại phương án bồi thường về đất theo đúng quy định pháp luật, để các hộ gia đình được hưởng đúng, đủ quyền lợi (được bồi thường 100% giá trị đất);
  3. Điều chỉnh phương án hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm, để các hộ gia đình được hưởng đúng, đủ quyền lợi sau khi đã bị thu hồi đất.

- Công văn số 2336/UBND-DC3 ngày 26/04/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, gồm nội dung chính:

Ngày 26/04/2019, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng đã có Công văn số 2336/UBND-DC3 về việc “Cưỡng chế thực hiện các quyết định thu hồi đất đối với các hộ gia đình, cá nhân thực hiện Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại thị trấn Cát Hải, xã Đồng Bài, huyện Cát Hải (Dự án DEEP CIII)". Tại Công văn số 2336/UBND-DC3, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng có ý kiến chỉ đạo:

  • Giao Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải:

Tạm dừng việc thực hiện các quyết định cưỡng chế thực hiện các quyết định thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân thực hiện Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại thị trấn Cát Hải, xã Đồng Bài, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.

  • Giao Ban quản lý Khu kinh tế Hải Phòng, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hải Phòng:

Khẩn trương rà soát lại các thủ tục có liên quan Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại thị trấn Cát Hải, xã Đồng Bài, huyện Cát Hải, báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng.

  • Giao Thanh tra thành phố Hải Phòng:

Khẩn trương rà soát lại trình tự thủ tục cưỡng chế thu hồi đất và giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đối với các hộ dân thuộc phạm vi thu hồi đất của Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại thị trấn Cát Hải, xã Đồng Bài, huyện Cát Hải.

- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Luật sư Phạm Ngọc Minh

Luật sư Phạm Ngọc Minh

https://everest.org.vn/luat-su-pham-ngoc-minh/ Luật sư Phạm Ngọc Minh - CEO Công ty Luật TNHH Everest. Luật sư Minh có hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.24166 sec| 1121.578 kb