Sở hữu toàn dân về đất đai theo quan điểm của Mác -Lê-nin

Bởi Phạm Nhật Thăng - 21/09/2023
view 0
comment-forum-solid 0
Phạm trù “sở hữu toàn dân về đất đai” không phải là sản phẩm riêng có của Đảng ta mà là kết quả của sự vận dụng những nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn trong di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

1- Quy định chung về chế độ sở hữu toàn dân về đất đai

Toàn dân thực hiện quyền năng chủ sở hữu đất đai thông qua tổ chức đại diện do họ lập ra là Nhà nước. Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Sở hữu toàn dân về đất đai được đề cập cụ thể trong như sau:

1.1 Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.

1.2 Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau: quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; định giá đất;

1.3 Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua các chính sách tài chính về đất đai như sau: thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại;

1.4 Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

2- Sở hữu toàn dân về đất đai theo quan điểm của C. Mác

Sở hữu toàn dân về đất đai là một trong những nội dung quan trọng nhất của Hiến pháp và Luật Đất đai, được xác định một cách liên tục và nhất quán ở nước ta qua các thời kỳ trước và trong đổi mới. Mặc dù Hiến pháp năm 2013 và Luật Đất đai năm 2013 tiếp tục khẳng định điều này nhưng vẫn còn không ít những ý kiến hoài nghi, thậm chí phản bác tính chất đúng đắn của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Một số ý kiến còn cho rằng, chính sở hữu toàn dân về đất đai là nguyên nhân dẫn đến những vụ khiếu kiện đông người kéo dài, gây mất ổn định xã hội ở một số địa phương. Họ đòi phải “đa dạng hóa” sở hữu đất đai, trong đó có bao gồm sở hữu tư nhân về đất đai. Một số người, có cả những cán bộ, công chức,... có những hiểu biết rất “mơ hồ” về khái niệm “toàn dân” với tư cách là chủ thể sở hữu đất đai. Thậm chí còn phủ nhận sự tồn tại của khái niệm đó.

Tất cả những điều nói trên cho thấy cần làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của việc xác định sở hữu toàn dân về đất đai nhằm đáp ứng các yêu cầu không chỉ về nhận thức mà còn cả về hành động trong thực thi Hiến pháp và các đạo luật liên quan tới đất đai ở nước ta.

Trước hết, cần phải khẳng định rằng, phạm trù “sở hữu toàn dân về đất đai” không phải là sản phẩm riêng có của Đảng ta mà là kết quả của sự vận dụng những nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn trong di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Vào thời của mình, khi nghiên cứu về đất đai và địa tô dưới các chế độ phong kiến và tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã chứng minh một cách thuyết phục rằng, trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì chế độ tư hữu về ruộng đất là vô lý nhất và quyền tư hữu về ruộng đất là hoàn toàn vô lý; nói đến quyền tư hữu về ruộng đất chẳng khác gì nói đến quyền sở hữu cá nhân đối với những người đồng loại của mình. Ông cho rằng, loài người không tạo ra đất đai, nó rõ ràng là có trước con người. Vì thế không một ai có quyền sở hữu đất đai.

Quyền tư hữu về đất đai sinh ra địa tô tuyệt đối là một lực cản ghê gớm đối với sự phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, là nguồn gốc của sự đói khổ của số đông nhân loại trong lịch sử. C. Mác cho rằng, về mặt sở hữu thì đất đai thuộc về sở hữu toàn nhân loại theo nghĩa rộng, tức là tất cả các thế hệ loài người đã, đang và sẽ sống trên trái đất. Mỗi thế hệ vừa là bộ phận của chủ sở hữu vừa là chủ thể sử dụng đất. Với tư cách là chủ thể sử dụng đất, thế hệ đó phải có trách nhiệm không chỉ tạo ra những của cải cho cuộc sống của mình mà còn phải tôn tạo, bảo vệ độ phì nhiêu của đất để bàn giao cho đời sau. Người nào sử dụng đất mà làm cho đất bị ô nhiễm, sa mạc hóa là có tội. Ông kịch liệt lên án việc sử dụng đất theo phương pháp tư bản chủ nghĩa bởi vì nó làm giảm độ phì nhiêu của đất,… Theo C. Mác, trong điều kiện còn tồn tại các quốc gia, dân tộc thì đất đai thuộc về chủ quyền lãnh thổ của quốc gia đó và chỉ có toàn thể chủ nhân của quốc gia đó (chứ không phải là chính quyền nhà nước) mới là chủ thể sở hữu lãnh thổ đó.

Có thể bạn quan tâm: Dịch vụ Luật sư ly hôn tại Công ty Luật TNHH Everest.

3- Quan điểm và sự vận dụng của Lê-nin trong vấn đề sở hữ toàn dân về đất đai

V.I. Lê-nin là người am hiểu sâu sắc cơ sở pháp lý của vấn đề sở hữu đất đai cũng như lý luận về đất đai và địa tô của C. Mác. Khi nghiên cứu về hai con đường phát triển tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, V.I. Lê-nin đã đi đến kết luận rất khoa học về sự cần thiết phải quốc hữu hóa đất đai để xóa bỏ địa tô tuyệt đối nhằm mở đường cho sự phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Chính V.I. Lê-nin từng viết báo lên án mạnh mẽ chính quyền Sa hoàng vì đã bán toàn bộ lãnh thổ Alaska cho Mỹ (năm 1867), đồng thời, chỉ ra sự cam chịu của chính quyền Mãn Thanh dưới áp lực của Liên quân Anh, Pháp ký hiệp định cho thuê 99 năm Hồng Kông (với Anh) và một phần Quảng Châu cùng đường sắt Côn Minh - Vân Nam (với Pháp).

Với sự thấu hiểu về sở hữu đất đai như thế nên ngay vào ngày thứ hai sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, chính V.I. Lê-nin đã soạn thảo và ban hành hai sắc lệnh đầu tiên của Chính quyền Xô-viết là Sắc lệnh về hòa bình và Sắc lệnh về ruộng đất. Trong Sắc lệnh về ruộng đất đó, phạm trù “sở hữu toàn dân về đất đai” ở nước Nga xô-viết đã được luật hóa. Theo quan điểm của V.I. Lê-nin, thể hiện trong Sắc lệnh về ruộng đất, Nhà nước xô-viết cũng như tất cả mọi nhà nước không có quyền sở hữu đất đai, do vậy không được phép bán cho bất kỳ chủ thể nào dù chỉ một phần nhỏ đất đai. Nhà nước xô-viết chỉ là người quản lý, người giám đốc điều hành nhằm bảo vệ lợi ích của chủ thể sở hữu là Toàn Dân. Không làm được điều đó là một nhà nước tồi. Để mất đất đai vào tay ngoại bang hay tư nhân cũng đều làm hại tới lợi ích của Toàn Dân với tư cách là chủ thể sở hữu. Toàn Dân cũng không phải chỉ là toàn thể nhân dân (tức là những người đang sống trên đất) mà còn bao gồm cả những người đã khuất vì họ có kết tinh lao động vào trong đất và có công khai phá, bảo vệ đất nước. Toàn Dân cũng còn bao gồm cả những thế hệ tương lai sẽ xuất hiện và sẽ tiếp tục sinh sống trên đất đai của tiền nhân. Mở rộng ra hơn nữa, khái niệm Toàn Dân cũng còn bao gồm tất cả những ai (cho dù không có quốc tịch) coi vùng lãnh thổ đó là Tổ quốc và sẵn sàng làm tất cả, kể cả hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc.

Không có gì để có thể nghi ngờ rằng những cống hiến nêu trên của V.I. Lê-nin là một trong những thành tựu xuất sắc nhất của ông khi kiên trì bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác và tiếp tục phát triển nó trong điều kiện lịch sử mới của thế giới khi đó.

Có thể bạn quan tâm: Dịch vụ pháp lý về Hợp đồng hôn nhân của Công ty Luật TNHH Everest.

4- Sự hình thành chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở Việt Nam

Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng việc tiến hành quốc hữu hoá đất đai là một tất yếu khách quan. Song các ông cũng chỉ ra rằng không thể xoá bỏ ngay lập tức chế độ tư hữu về ruộng đất; việc xoá bỏ chế độ này phải là một quá trình lâu dài. Theo Ph. Ăngghen:

Quan điểm thu hồi hết ruộng đất của đế quốc, phong kiến làm của công, thực hiện quyền ruộng đất về Nhà nước (cấm mua, bán ruộng đất) là tiền đề quan trọng và là nền tảng của chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai ở nước ta trong giai đoạn này;

- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền nhân dân tuyên bố bãi bỏ các luật lệ về ruộng đất của chế độ cũ;

- Năm 1946, Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh về giảm tô; bãi bỏ thuế thổ trạch ở thôn quê;

- Năm 1953, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua Luật cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, cường hào... chia cho nông dân, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”;

- Tiếp đó, Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nhà nước chiểu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đẩt và các tư liệu sản xuất khác của nông dân...” (Điều 14);

- Trong những năm 1960, miền Bắc thực hiện phong trào “hợp tác hoá” vận động nông dân đóng góp ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác vào làm ăn tập thể trong các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, ở giai đoạn này, “Mặc dù Hiến pháp 1959 quy định rõ Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tư nhãn về ruộng đẩt của người nông dân nhưng trong quá trình vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể, tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và thực hiện việc “cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội”, về cơ bản đất đai ở nước ta từng bước đã được xã hội hoá toàn bộ,đây là thành quả của quả trình đẩu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, trải qua nhiều thể hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức và xương máu mới khai thác, bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất như ngày nay. Hơn nữa, nước ta là một nước có mật độ dân sổ cao, bình quân đất canh tác theo đầu người thấp, người làm nghề nông chiếm hơn 85% dân so, vì lẽ đó việc xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí là hết sức quan trọng nhằm bảo đảm sử dụng đẩt đai đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, vì lợi ỉch hiện tại và cho cả thê hệ mai sau của dân tộc cũng như lợi ỉch của mỗi người Hơn nữa, hiện nay trong điều kiện nước ta “mở cửa”, chủ động hội nhập từng bước vững chắc vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu thì việc xác lập hình thức sở hữu toàn dân về đất đai là một trong những phương thức nhằm góp phần củng cố và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Có thể bạn quan tâm: Dịch vụ pháp chế doanh nghiệp (Luật sư nội bộ doanh nghiệp) của Công ty Luật TNHH Everest.

5- Quyền của người sử dụng đất qua các thời kỳ ở Việt Nam

Có thể khẳng định rằng, quyền của người sử dụng đất được ghi nhận trong luật đất đai qua các thời kỳ là khác nhau, theo xu hướng mở rộng quyền năng của người sử dụng đất. Cụ thể như sau:

Trong Luật Đất đai năm 1987, người sử dụng đất không có quyền được tham gia thị trường quyền sử dụng đất.  Đất ở được sử dụng theo hạn mức diện tích, Nhà nước giao đất cho người có nhu cầu và thu hồi đất của người không còn nhu cầu.

Luật Đất đai 1993 có sự thay đổi theo hướng mở rộng quyền cho người sử dụng đất. Cụ thể, hộ gia đình, cá nhân được thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê đất (từ Điều 74 đến Điều 78).

Điều 106 Luật Đất đai 2003, ghi nhận người sử dụng đất có 10 quyền, bao gồm: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Luật Đất đai 2013 có 8 quyền được ghi nhận tại Điều 167: Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn, quyền sử dụng đất.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, Luật Đất đai năm 1993 không quy định người sử dụng đất được bảo lãnh, tặng cho quyền sử dụng đất, không quy định người thuê đất được cho thuê lại quyền sử dụng đất và cũng không quy định khi hết thời hạn sử dụng đất mà người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất và việc sử dụng đất lại phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Nhà nước thì có được Nhà nước tiếp tục giao đất hay không… thì Luật Đất đai  năm 2003, 2013 đã bổ sung các quyền này cho người sử dụng đất.

Phải thừa nhận có sự khác biệt về quyền năng của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và người sử dụng đất với tư cách là người trực tiếp khai thác, sử dụng đất. Đó là: Quyền sở hữu đất đai là quyền có trước, còn quyền sử dụng đất là quyền phái sinh; Quyền sở hữu đất đai là một loại quyền trọn vẹn, đầy đủ, còn quyền sử dụng đất là một loại quyền không trọn vẹn, không đầy đủ.

Tuy nhiên, cần phải khẳng định các quyền tại luật đất đai sau này có nhiều quyền mang tính chất định đoạt tài sản – quyền của chủ sở hữu, nghĩa là việc thực hiện quyền dẫn đến thay đổi người sử dụng đất với tư cách là chủ thể trực tiếp quản lý, khai thác thửa đất, đó là quyền trao đổi, tặng cho, chuyển nhượng, góp vốn, thừa kế bằng quyền sử dụng đất. Nghĩa là Nhà nước đã cho phép người dân được định đoạt tài sản đất đai một cách hạn chế, trong khuôn khổ pháp luật cho phép.

Mặc dù thủ tục thực hiện các quyền nêu trên của người sử dụng đất tuy phức tạp hơn so với việc định đoạt các loại tài sản thông thường khác, nhưng nếu nhìn từ góc độ khoa học pháp lý thì sẽ dễ dàng nhận thấy quyền của người sử dụng đất thực chất là một tập hợp nhiều quyền năng về tài sản, trong đó bao gồm cả quyền định đoạt.

  

6- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

[a] Bài viết đất đai theo quan điểm của Mác - Lênin được chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

[b] Bài viết đất đai theo quan điểm của Mác - Lênin có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết. [c] Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý, hoặc thuê luật sư tư vấn cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: (024) 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
1.03060 sec| 1071.641 kb