Các quyền hiến định về chính trị của công dân trong Hiến pháp Việt Nam

Bởi Trần Thu Thủy - 31/12/2019
view 601
comment-forum-solid 0
Cùng với các quyền công dân khác, các quyền chính trị của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện là một trong những thành quả vĩ đại nhất của cách mạng nước ta – từ cách mạng dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, trực tiếp phản ánh sự làm chủ về chính trị của nhân dân dưới chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Trong điều kiện đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay thì việc tiếp tục hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quyền chính trị của công dân bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ khái quát về các quyền chính trị của công dân trong hiến pháp Việt Nam và đưa ra các phương hướng nhằm nâng cao vai trò của Hiến pháp trong việc bảo đảm các quyền chính trị của công dân ở Việt Nam hiện nay.

Luật sư tư vấn pháp luật Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198

1.Các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp Việt Nam

1.1. Các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp năm 1946

Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Hiến pháp dân chủ và tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam Á. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn, phức tạp ở buổi đầu của cuộc cách mạng, quan hệ đến sự mất còn của chính quyền nhân dân non trẻ; giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng một lúc đe dọa nền độc lập dân tộc mới giành lại được, Hiến pháp năm 1946 thực sự là công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu lực nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng và thực hiện quyền lực nhân dân trên nền tảng dân chủ. Hiến pháp năm 1946 là cơ sở pháp lý cho việc xác lập các quyền cơ bản của công dân, thể hiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa nhà nước và công dân ở Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, người dân Việt Nam được Hiến pháp năm 1946 xác nhận có tư cách công dân của một nhà nước độc lập, có chủ quyền và các quyền con người được đạo luật cơ bản ghi nhận và bảo đảm thực hiện, trở thành các quyền cơ bản của công dân.

Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Hiến pháp năm 1946 long trọng tuyên bố 2 quyền cơ bản mang tính nguyên tắc của người dân Việt Nam trong một nước tự do, độc lập là: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật…” (Điều 7). Hai điều luật này thể hiện tính nhân đạo, tính tiến bộ và sự ưu việt của chế độ chính trị và xã hội nước ta, khi nhân dân lao động đã trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. Hai quyền này mang tính phổ quát đối với tất cả các quyền hiến định khác của công dân.

Một trong 3 nguyên tắc xây dựng Hiến pháp 1946 là “bảo đảm các quyền tự do dân chủ” của công dân, trong đó có các quyền, tự do dân chủ về chính trị. Trong điều kiện vừa mới giành được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và thiết lập Nhà nước Việt Nam kiểu mới thì việc quy định trong Hiến pháp năm 1946 về các quyền chính trị của công dân có ý nghĩa chính trị - pháp lý và xã hội vô cùng to lớn. Nó khẳng định về mặt pháp lý quyền làm chủ nhà nước và ý chí quyết tâm xây dựng, bảo vệ nhà nước của nhân dân Việt Nam, nhất là trong bối cảnh thực dân Pháp đang muốn xâm lược nước ta một lần nữa. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhà nước như vậy, Hiến pháp năm 1946 không thể quy định nhiều quyền chính trị mà chỉ dành riêng một số điều trong chương II (Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân) quy định các quyền chính trị cơ bản của công dân.

Quyền chính trị quan trọng hàng đầu trong Hiến pháp năm 1946 quy định là quyền “được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7). Quy định này phản ánh tính chất nhân dân và tính chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định quyền làm chủ về chính trị, làm chủ nhà nước của người dân Việt Nam sau bao nhiêu năm chống ách áp bức, bóc lột của bọn thực dân và phong kiến, thể hiện tính ưu việt của chế độ dân chủ nhân dân vừa mới được thiết lập. Sự độc đáo ở đây là Hiến pháp quy định việc tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc ấy tùy vào tài năng, đức độ của mỗi người tham gia chứ không bắt buộc phải tham gia hay phải tham gia khi mình không có tài năng hoặc tham gia vượt quá khả năng của bản thân. Hiến pháp năm 1946 quy định như vậy là nhằm thực hiện chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng là đoàn kết toàn dân, huy động toàn bộ lực lượng của nhân dân vào việc bảo vệ chính quyền và kiến thiết đất nước, “không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo” (Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946); không phân biệt giàu, nghèo, có nhiều của cải hay có ít của cải, miễn là có tinh thần yêu nước và có đóng góp cho nước, cho dân cả về vật chất lẫn tinh thần hoặc chỉ bằng vật chất hoặc chỉ bằng tinh thần. Trong bối cảnh nước nhà vừa mới giành được độc lập, kinh tế và xã hội kém phát triển; đại bộ phận nhân dân đều đang trong tình trạng nghèo đói; cơ cấu dân cư phức tạp bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội với nhiều chính kiến khác nhau; chính trị chưa ổn định nên việc Hiến pháp quy định như vậy là hết sức phù hợp, nhằm huy động, tập trung được mọi nguồn nhân lực từ nhân dân để xây dựng, bảo vệ chính quyền và phát triển kinh tế - xã hội.

Quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân được quy định tại Điều 18: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử”. Chế độ bầu cử ở nước ta được thực hiện trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, tự do, trực tiếp và kín (Điều 17).

Quyền bãi miễn đại biểu mà mình đã bầu ra của công dân được quy định tại Điều 20. Điều đáng chú ý ở đây là Hiến pháp quy định chủ thể của quyền bãi miễn đại biểu dân cử là “nhân dân” chứ không phải chỉ là cử tri. Quy định này thể hiện tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước ta. Điều 41 Hiến pháp quy định Nghị viện nhân dân phải xem xét vấn đề bãi miễn một nghị viện khi nhận được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu ra nghị viện đó và nếu hai phần ba tổng số nghị viện ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viện đó phải từ chức. Cũng theo điều 61 Hiến pháp, nhân viên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính có thể bị bãi miễn và việc bãi miễn đó sẽ do luật định. Như vậy, không chỉ có đại biểu HĐND bãi miễn, mà nhân viên Uỷ ban hành chính cũng có thể bị bãi miễn bởi nhân dân.

Quyền phúc quyết về hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia của công dân được quy định tại Điều 21 Hiến pháp. Theo Điều 32, nếu 2/3 tổng số nghị viện đồng ý thì Nghị việc phải đưa ra cho nhân dân phúc quyết những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia. Đối với việc sửa đổi Hiến pháp, Điều 70 quy định: “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Những quy định này nhằm đề cao vai trò quyết định của nhân dân đối với vận mệnh của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Như vậy, có hai trường hợp phúc quyết toàn dân – một là toàn dân phúc quyết những vấn đề quan trọng liên quan tới lợi ích sống còn của cả quốc gia và toàn dân phúc quyết vấn đề sửa đổi hiến pháp. Cả hai trường hợp này đều được tiến hành trên cơ sở hiến pháp và pháp luật.

1.2. Các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp năm 1959

Hiến pháp năm 1959 đánh dấu bước phát triển mới trong việc ghi nhận các quyền chính trị của công dân và những bảo đảm pháp lý cho chúng. Nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng trong giai đoạn này là xây dựng CNXH ở miền bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền nam, tiến tới thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước. Việc ghi nhận các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước cho các quyền đó cũng nhằm phục vụ các nhiệm vụ và mục tiêu chiến lược ấy của cách mạng. Lời nói đầu Hiến pháp năm 1959 đã nêu rõ: “Hiến pháp mới quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ tổ quốc”.

Hiến pháp năm 1959 vừa kế thừa, vừa phát triển những quy định của Hiến pháp năm 1946 về các quyền chính trị của công dân và những bảo đảm của Nhà nước cho các quyền ấy. Có hai quyền mà Hiến pháp năm 1946 ghi nhận không được quy định lại trong Hiến pháp năm 1959 là quyền phúc quyết về hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21 Hiến pháp năm 1946) và quyền tham gia chính quyền và kiến quốc (Điều 7 Hiến pháp năm 1946).

Theo Hiến pháp năm 1959, Quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân được quy định tại Điều 23 với những bổ sung quan trọng và cần thiết so với Hiến pháp năm 1946 nhằm nhấn mạnh tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Độ tuổi để được quyền bầu cử và ứng cử giống với độ tuổi đã được quy định trong Hiến pháp năm 1946. Điểm mới ở đây là: nếu Hiến pháp năm 1946 chỉ đưa ra một yếu tố - yếu tố giới tính (nam, nữ) để quy định căn cứ không được hạn chế quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân thì Hiến pháp năm 1959 quy định một loạt các yếu tố khác nữa về dân tộc, nguồn gốc xuất thân, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, tình trạng tài sản, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú. Hiến pháp năm 1959 quy định như vậy nhằm tạo cơ hội cho mọi công dân “trừ những người mất trí hoặc những người bị tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử” (Điều 23) đều được quyền bầu cử và quyền ứng cử, đồng thời khẳng định thêm tinh thần dân tộc, tính dân chủ rộng rãi của Nhà nước ta, vì mục đích tiếp tục bảo vệ và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh giải phóng miền nam. Hiến pháp năm 1959 bỏ điều kiện “phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” mà Hiến pháp năm 1946 đã quy định, vì tới giai đoạn này thì phần lớn số dân đã biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ cho nên không cần thiết phải quy định như vậy nữa. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1959 còn bổ sung nguyên tắc bình đẳng vào các nguyên tắc bầu cử đã được quy định trong Hiến pháp năm 1946, theo đó, chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ở nước ta được hình thành theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiế kín (Điều 5).

Các quy định của Hiến pháp năm 1959 về quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân và về các nguyên tắc bầu cử là cơ sở pháp lý để Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959 – đạo luật bầu cử đầu tiên ở nước ta.

Về quyền công dân đối với viêc bãi miễn đại biểu dân cử. Nếu Hiến pháp năm 1946 quy định trực tiếp quyền của nhân dân được bãi miễn đại biểu mà mình đã bầu ra (Điều 20) thì Hiến pháp năm 1959 quy định quyền này một cách gián tiếp: “Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (Điều 5). So với nội dung quy định tại Điều 20 Hiến pháp năm 1946 thì nội dung quy định trong Điều 5 Hiến pháp năm 1959 có một số điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng và cần thiết: một là, không phải nhân dân thực hiện quyền bãi miễn đại biểu dân cử như trước đây mà chỉ các công dân là “cử tri” mới có quyền này; hai là, cử tri bãi miễn đại biểu dân cử trong thời gian còn nhiệm kỳ đại biểu và ba là, cử tri chỉ có thể bãi miễn đại biểu dân cử khi đại biểu đó không còn tín nhiệm đối với nhân dân nữa.

Đối với hai quyền chính trị mới là quyền khiếu nại và quyền tố cáo của công dân (Điều 29)Hiến pháp năm 1959 quy định đối tượng của khiếu nại, tố cáo là “hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước”; nơi mà công dân gửi khiếu nại, tố cáo hoặc trực tiếp tới trình bày về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước là “bất cứ cơ quan nhà nước nào” nhằm tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền này một cách dễ dàng, không vướng một rào cản nào cả, đồng thời, cũng nâng cao trách nhiệm của tất cả các cơ quan nhà nước trong việc nhận khiếu nại, tố cáo của dân hay trực tiếp tiếp dân. Đặc biệt, lần đầu tiên Hiến pháp năm 1959 quy định bảo đảm của Nhà nước đối với các quyền này như sau: “Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường” (Điều 29). Quy định này có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn và có mục đích rõ ràng: một là, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, nhà chức trách trong việc xét và giải quyết kịp thời, nhanh chóng những khiếu nại, tố cáo của dân; hai là, nêu lên và thực hiện một trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa (mà biểu hiện cụ thể là các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước) với công dân là cả hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm quyền và lợi ích của nhau; ba là, củng cố lòng tin của nhân dân vào “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu trong Hiến pháp năm 1959).

1.3. Các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp năm 1980

Hiến pháp năm 1980 ra đời trong điều kiện nước nhà thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, do đó, các quy định về các quyền chính trị cơ bản của công dân và bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó đã có bước phát triển đáng ghi nhận. Trong Hiến pháp năm 1980, các quyền chính trị cơ bản và các quyền khác của công dân cũng như những bảo đảm của Nhà nước trong việc thực hiện các quyền đó được xác lập trên cơ sở tư tưởng về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động: “Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết hợp hài hòa những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người” (Điều 54). Thấm nhuần tư tưởng đó, Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên ghi nhận một trong những nguyên tắc cơ bản của việc xác lập và bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của công dân ở nước ta là: “Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội”.

Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định quyền bình đẳng trước pháp luật của công dân như là một nguyên tắc hiến định của việc xác lập và thực hiện tất cả các quyền công dân và các nghĩa vụ công dân ở nước ta và nó có ý nghĩa to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Việc Hiến pháp năm 1980 quy định quyền chính trị mới là quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và của xã hội đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của Nhà nước về vị trí, vai trò của nhân dân trong quản lý nhà nước và quản lý xã hội, thể hiện tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước ta. Trên thực tế, Hiến pháp năm 1980 đã khôi phục lại quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 1946. Trong Chương I (Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – chế độ chính trị), Hiến pháp năm 1980 quy định bảo đảm của nhà nước đối với quyền này như sau:

“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” (Điều 6);

“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; làm chủ trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở” (Điều 3).

Đối với quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân, Hiến pháp vẫn quy định công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Tòa án nhân dân tước quyền đó.

Các quy định trong Hiến pháp năm 1980 về quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân và các nguyên tắc bầu cử được cụ thể hóa trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1983, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1989. Cùng với Hiến pháp năm 1980, các đạo luật này là cơ sở pháp lý vững chắc để công dân thực hiện đúng đắn quyền bầu cử và quyền ứng cử của mình, nhằm góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đối với việc bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định trực tiếp quyền này của các công dân là cử tri: “Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (Điều 7).

Về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân (Điều 73) Hiến pháp năm 1980 quy định “Các điều kiện khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng” và “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường” nhưng Hiến pháp 1980 đã bổ sung hai điểm quan trọng: một là, “Mọi hành đông xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh”; hai là, “Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”. Quy định bổ sung này vừa nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật trong việc xử lý cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật vừa để bảo vệ quyền lợi và sự an toàn của người khiếu nại, tố cáo, khuyến khích họ tiếp tục thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo của mình nếu phát hiện ra những việc làm trái pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó.

1.4. Các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp năm 1992

Hiến pháp năm 1992 ra đời sau 12 năm thực hiện Hiến pháp năm 1980, ở “thời điểm mà sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ năm 1986 đang đòi hỏi việc tiếp tục với nội dung sâu sắc và toàn diện hơn, với bước đi vững chắc nhằm đưa đất nước ta tiến tới một giai đoạn phát triển mới” và chúng ta “đã giành được những thành tựu tuy mới bước đầu nhưng rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực”.

Trong bối cảnh đó, Hiến pháp năm 1992 phải là một Hiến pháp đổi mới, có kế thừa, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1980.

Trong các quy định của Hiến pháp năm 1992 về các quyền chính trị của công dân có những điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm mở rộng các quyền về chính trị của công dân cho phù hợp với điều kiện dân chủ hóa xã hội hiện nay ở nước ta.

Điều 53 quy định 4 quyền chính trị của công dân liên quan đến việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nếu Hiến pháp năm 1980 quy định một cách chung chung “Công dân có quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội” (Điều 65) thì Hiến pháp năm 1992 nói rõ ràng và cụ thể hơn những công việc mà công dân có thể tham gia giải quyết như thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý, trên cơ sở đó xuất hiện 3 quyền chính trị mới tương ứng với ba loại hoạt động mà công dân được phép tiến hành. Ở đây cần lưu ý rằng, Hiến pháp năm 1992 đã khôi phục quyền biểu quyết của công dân đã được quy định trong Hiến pháp năm 1946 (Điều 21) nhưng trong Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 thì không có quyền này. Đây chính là cơ sở pháp lý để xây dựng và ban hành Luật Trưng cầu ý dân.

Đối với quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân (Điều 54), Hiến pháp năm 1992 có một số điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng. Một là, nếu trước đây Hiến pháp năm 1980 gộp tín ngưỡng với tôn giáo thì nay Hiến pháp năm 1992 tách “tín ngưỡng” khỏi “tôn giáo” thành hai đặc điểm độc lập về nhân thân là căn cứ không được dựa vào để phân biệt đối xử dẫn tới hạn chế quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân; Hai là, về tuổi để được bầu cử và được ứng cử, Hiến pháp năm 1992 thay các câu: “từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử” và “từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu” đã được quy định trong Điều 57 Hiến pháp năm 1980 bằng các câu: “đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử” và “đủ hai mươi tuổi trở lên đều có quyền ứng cử”. Việc sửa đổi là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý, vì nó phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi nâng cao năng lực và trách nhiệm của người đại biểu dân cử trước tình hình và nhiệm vụ mới hiện nay, do đó cả người đi bầu cử lẫn người ứng cử cần đạt độ tuổi nhất định để sáng suốt lựa chọn người có đức, có tài đứng ra gánh vác việc nước, việc dân và để đủ trình độ, năng lực, sức khỏe, kiến thức xã hội,…thực hiện được nghĩa vụ, trách nhiệm của người đại biểu quốc hội trước nhân dân nếu như được bầu vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Ba là, Hiến pháp năm 1992 thay câu: “có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp” đã được quy định tại Điều 57 Hiến pháp năm 1980 bằng câu: “có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật”. Việc sửa đổi này cũng hoàn toàn đúng đắn nhằm bảo đảm tính chính xác và tính chặt chẽ của các quy định pháp luật về ứng cử đại biểu, vì theo quy định của Điều 57 Hiến pháp năm 1980 thì bất cứ công dân nào từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân trừ những người mất năng lực hành vi dân sự và những người bị pháp luật hoặc Tòa án nhân dân tước quyền ứng cử. Quy định như vậy không chính xác và không thực tế, vì số lượng đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân đều có hạn và số lượng ứng cử viên cũng có hạn. Còn theo quy định mới trong Hiến pháp năm 1992 thì việc ứng cử phải theo quy định của pháp luật. Công dân ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân phải tuân theo các quy định của các đạo luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Điều 7 Hiến pháp năm 1992 tiếp tục quy định các nguyên tắc bầu cử như đã được quy định trong Điều 7 Hiến pháp 1980 đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Quyền của cử tri được bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại biểu đó không còn tín nhiệm đối với nhân dân được quy định tại Điều 7 với sự thay từ “bãi miễn” bằng từ “bãi nhiệm” cho chuẩn xác về ngữ nghĩa. Quyền này của cử tri được Hiến pháp quy định một cách gián tiếp: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm…”. Tuy vậy, quy định này của Hiến pháp vẫn mang tính dân chủ sâu sắc, phản ánh địa vị làm chủ nhà nước của nhân dân nói chung, của cử tri nói riêng.

1.5. Các quyền chính trị của công dân trong Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 2013 ra đời trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; nhằm thể chế hóa hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Hiến pháp năm 2013 ra đời trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể, chặt chẽ hơn về các quyền chính trị của công dân như:

Về quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội: Các quyền này được quy định tại Điều 27, 28, 29 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Theo Điều 6, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện.

Về quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tiếp cận thông tin: Theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013, công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin. Nếu như Hiến pháp 1992 chỉ quy định “Công dân có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013 tại Điều 25 đã thay chữ “được thông tin” bằng cụm từ “tiếp cận thông tin”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.

Về quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình: Quyền này được quy định tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013.

Về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo: Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Về quyền bình đẳng của các dân tộc: Theo Điều 5, Hiến pháp năm 2013 “các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Điều 42 Hiến pháp năm 2013 đã quy định một quyền mới là: Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.

2. Những phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của Hiến pháp trong việc bảo đảm các quyền chính trị của công dân

Việc nâng cao hơn nữa vai trò của Hiến pháp trong việc bảo đảm các quyền chính trị của công dân ở nước ta cần được tiến hành đồng thời và đồng bộ theo nhiều phương hướng khác nhau. Ở đây, tác giả xin nêu một số phương hướng mang tính pháp lý.

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức về các quyền chính trị của công dân và mối quan hệ chặt chẽ giữa các quyền chính trị đó với Hiến pháp.

Có thể nói, các quyền chính trị của công dân và nền lập hiến Việt Nam vì con người, cho con người và vì quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình của nhân dân lao động là một trong những thành quả vĩ đại nhất của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh hùng hồn rằng, khi nhân dân lao động làm chủ đất nước, tức là nắm được chính quyền nhà nước, thì nhân dân có điều kiện và khả năng sử dụng nhà nước để thực hiện quyền lực của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng; còn nhà nước khi đã trở thành nhà nước của dân, do dân và vì dân thì nhà nước có đủ sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần để thực thi quyền lực nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các quyền chính trị của công dân và sự bảo đảm các quyền đó bằng Hiến pháp và pháp luật chính là sự thể hiện quyền làm chủ nhà nước của nhân dân lao động và sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bởi vậy, sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ và không ngừng nâng cao sự nhận thức đó về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng các quyền chính trị của công dân và sự bảo đảm các quyền đó bằng Hiến pháp và pháp luật là tiền đề và điều kiện tư tưởng – chính trị - pháp lý vô cùng quan trọng để bảo đảm và phát huy cao độ quyền làm chủ nhà nước của nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước và cùng cố mối quan hệ bền chặt giữa nhà nước với nhân dân.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước để mọi người nhận thức đúng đắn, sâu sắc, thống nhất hơn nữa giá trị, vai trò của các quy phạm hiến pháp trong việc bảo đảm các quyền chính trị của công dân.

Bảo đảm các quyền chính trị của công dân ở nước ta là nhiệm vụ chung của hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, Hiến pháp vẫn giữ vị trí hàng đầu và có vai trò quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật vì nó là Luật cơ bản của Nhà nước và có giá trị pháp lý cao nhất; mọi văn bản quy phạm pháp luật khác trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước đều phải được ban hành trên cơ sở Hiến pháp và phù hợp với Hiến pháp. Các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm Nhà nước có ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Do đó, sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc, thống nhất về các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước sẽ là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động trên cả ba lĩnh vực hoạt động pháp luật đó.

Trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục Hiến pháp nói chung, các quy phạm pháp luật về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước nói riêng chưa được chú trọng đúng mức. Không ít người chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ về Hiến pháp. Đặc biệt người dân còn chưa có thói quen sử dụng Hiến pháp – Luật cơ bản – như là một công cụ pháp lý hữu hiệu nhất để vừa tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có các quyền, lợi ích hợp pháp về chính trị khi chúng bị xâm hại, vừa đấu tranh chống lại những hành vi vi phạm pháp luật trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội. Tình hình đó cũng gây không ít khó khăn, trở ngại cho việc xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật trong các lĩnh vực xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị.

Vì vậy, theo chúng tôi, trong thời gian tới, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các diễn đàn khác, cần sử dụng đồng bộ, linh hoạt và sáng tạo các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước như nói chuyện về Hiến pháp, tọa đàm về Hiến pháp, thi tìm hiểu Hiến pháp, giải thích chính thức Hiến pháp, giải thích không chính thức Hiến pháp, giảng dạy về Hiến pháp trong các trường phổ thông…

Thứ ba, thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh và thống nhất các quy phạm hiến pháp hiện hành về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước.

Thực hiện các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước nằm trong tổng thể việc thực hiện tất cả các quy phạm hiến pháp trên thực tế và được tiến hành dưới bốn hình thức có quan hệ chặt chẽ với nhu là tuân thủ, chấp hành, thi hành và áp dụng pháp luật.

Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước.

Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy phạm hiến pháp về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước và nhằm phát hiện những vi phạm, khuyết nhược điểm để đề xuất những biện pháp xử lý và khắc phục, vừa để đánh giá tính đúng đắn, tính khả thi của các quy phạm hiến pháp đó và tiếp nhận những ý kiến đóng góp của dư luận xã hội để tìm cách sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy phạm hiến pháp cho phù hợp với thực tế. Đối với các quy phạm pháp luật về các quyền chính trị của công dân và bảo đảm của Nhà nước thì thông qua kiểm tra việc thực hiện chúng, chúng ta có thể thấy được những ưu, nhược điểm của Nhà nước trong việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với Nhà nước; những vưỡng mắc cần tháo gỡ trong quá trình nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với Nhà nước; nhu cầu mở rộng các quyền, tự do dân chủ về chính trị của công dân…

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật doanh nghiệp được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.27801 sec| 1154.328 kb