Nội dung bài viết [Ẩn]
Khi chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, cần xác định xem quyền sử dụng đó có thế chấp tại cơ quan, tổ chức, cá nhân nào không để đưa họ tham gia tố tụng.
Trong vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa bà Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị V: Bản án nhận định bà V và anh H là người xây dựng các công trình trên đất, không hỏi ý kiến anh H về giải quyết tài sản trên đất nhưng chỉ buộc bà Nị trả số tiền giá trị bờ rào cho một mình bà V làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh H
Đương sự cho rằng đất của mình, không phải di sản nên không yêu cầu trích công sức tôn tạo, bảo quản di sản, bản án sơ thẩm không áp dụng nội dung án lệ để giải quyết trích công sức cho người có công bảo quản di sản.
Có nhiều người có công sức tôn tạo bảo quản di sản thừa kế nhưng chỉ trích cho một người hoặc một số người. Ví dụ Vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế” giữa bà Nguyễn Thị H và bà Hồ Thị L: Ông Trương Văn D kết hôn với bà Hồ Thị L năm 1986 và sống với ông T bà N trên mảnh đất đang tranh chấp. Năm 2003, ông Trương Văn D chết. Như vậy vợ chồng ông đã sống chung trên mảnh đất này 17 năm. Từ năm 2003 đến này bà L sống chung với bà N trên mảnh đất này. Vợ chồng bà L sống với ông T bà N trên diện tích đất tranh chấp đã có công sức bảo vệ, tôn tạo đất và thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với diện tích đất này. Tòa án cấp sơ thẩm tính trích công sức cho bà L mà không tính trích công sức cho ông D là thiếu sót, làm thiệt hại đến quyền lợi của bà L và các con.
Có nhiều người có công sức tôn tạo bảo quản di sản thừa kế, một số người đồng ý giao phần công sức của họ cho một người quản lý, sử dụng, một số người chưa có ý kiến nhưng lại giao toàn bộ công sức của tất cả cho một người quản lý, sử dụng. Vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” giữa ông Nguyễn Quốc K và bà Nguyễn Thị H: Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà H và 06 người con có công sức tôn tạo bảo quản di sản thừa kế, trong đó có 03 người con đồng ý giao phần công sức họ được hưởng cho bà H, 03 người con chưa có ý kiến gì về nội dung này nhưng bản án quyết định giao toàn bộ công sức có trị giá ½ thửa đất là di sản cho một mình bà H sử dụng làm ảnh hưởng quyền và lợi ích của 3 người con đó.
Luật sư tư vấn pháp luật Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198
Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên người để lại di sản, sau đó chia cho các đồng thừa kế và trích công sức bằng đất nhưng không yêu cầu các đương sự đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục theo quy định pháp luật.
Buộc nguyên đơn hoặc bị đơn phải trích tiền công sức, tiền trị giá tài sản trên đất thừa kế, trích tiền chênh lệch chia di sản thừa kế cho người có công sức, có tài sản hoặc đồng thừa kế nhưng không giao số tiền đó cho người được trích.
Giao cho được quyền sở hữu phần tường bao, nhà, công trình, cây cối đã xây dựng và trồng trên đất thừa kế được giao, được quyền sở hữu các tài sản trên đất nhưng không quyết định cụ thể bao nhiêu mét tường bao; giao ngôi nhà, công trình nào; số lượng các loại cây là chưa đầy đủ, gây khó khăn cho công tác thi hành án.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành định giá tài sản theo yêu cầu của đương sự nhưng hồ sơ không thể hiện chi phí định giá, thẩm định là bao nhiêu, ý kiến của người nộp tạm ứng chi phí đối với số tiền đã nộp như thế nào nhưng phần quyết định của bản án không quyết định về trách nhiệm chịu chi phí định giá theo quy định tại Điều 165 BLTTDS, Điều 42 Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 ngày 28/3/2012 về chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng.
Vi phạm trong việc tính án phí đối với người được hưởng di sản
Vi phạm trong việc không tính án phí đối với phần di sản giao cho các đương sự sử dụng vào mục đích thờ cúng.
Vi phạm trong việc miễn, giảm án phí
Người được chia, được hưởng di sản là người cao tuổi nhưng không xem xét, hướng dẫn cho đương sự làm các thủ tục để được miễn nộp án phí mà buộc họ phải chịu án phí. Điển hình: Tại bản án số 14/2017/DSST ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện DC giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế giữa anh Cao Văn B và bà Cao Thị S: Bà S, bà N, bà T là người cao tuổi được miễn án phí nhưng bản án sơ thẩm vẫn buộc họ phải chịu án phí là không đúng quy định tại Nghị quyết 326/2016.
Giảm án phí không đúng quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 326/2016-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016: Khi đương sự thuộc trường hợp được giảm nộp tạm ứng án phí nhưng bản án sơ thẩm giao cho đương sự sở hữu, sử dụng tài sản có giá trị lớn thì cần xác định đương sự không thuộc trường hợp được giảm án phí.
Người được miễn án phí thì chỉ được miễn án phí đối với phần di sản họ được chia được hưởng nhưng một số vụ án bản án quyết định miễn án phí cả phần thừa kế của những người khác tặng cho người đó là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTCVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm