Quá trình giải quyết vụ án dân sự trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau trong đó xét xử sơ thẩm tại phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất của tố tụng dân sự. Tại phiên toà sơ thẩm, toàn bộ các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong các giai đoạn trước, những yêu cầu của các đương sự được xem xét, đánh giá trực tiếp, công khai, khách quan và toàn diện với sự tham gia của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trên cơ sở kết quả phiên toà, hội đồng xét xử sẽ quyết định ra bản án hoặc các quyết định về việc giải quyết vụ án. Do đó, việc xét xử sơ thẩm đạt chất lượng tốt là cơ sở để toà án ra bản án, quyết định chính xác, khách quan, góp phần hạn chế kháng cáo, kháng nghị.
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, thực trạng pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử các vụ việc dân sự, ngày 25/11/2015 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua BLTTDS, trong đó với 47 điều từ Điều 222 đến Điều 269, các quy định về phiên toà sơ thẩm có nhiều điểm mới, đầy đủ và chặt chẽ hơn trước, bảo đảm hơn sự tham gia tố tụng của các đương sự , người bảo vệ quyền lợi của đương sự theo hướng mở rộng tranh tụng v.v..
I.Một số vấn đề cơ bản về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
1.Khái niệm, ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của Tòa án.
Phiên tòa sơ thẩm là phiên xét xử lần đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án sẽ quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự làm cơ sở cho việc thi hành án. Sau khi Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm, việc giải quyết vụ án dân sự sẽ kết thúc, trừ trường hợp có kháng cáo, kháng nghị.
Phiên tòa sơ thẩm là nơi để Tòa án thực hiện việc giáo pháp luật.
Hoạt động xét xử của Tòa án ở phiên tòa sơ thẩm là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, của cơ quan xét xử, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước.
1.Các nguyên tắc của phiên tòa sơ thẩm
Việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS tuân theo các nguyên tắc được quy định từ Điều 3 đến Điều 25 và Điều 225.
1.Quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành về phiên Tòa sơ thẩm vụ án dân sự
3.1. Thành phần HĐXX
Quy định tại Điều 63 BLTTDS 2015, thành phần Xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm 01 thẩm phán và 02 Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp quy định tại Điều 65. Trường hợp đặc biệt HĐXX có thể gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm nhân dân.
Sự tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng dân sự được quy định tại các điều từ Điều 227 đến Điều 232. Trong đó sự có mặt của các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là quan trọng nhất). Tòa án chỉ xét xử vắng mặt đương sự nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 228 BLTTDS 2015.
3.3.Hoãn phiên tòa
Việc hoãn phiên tòa được quy định tại Điều 233 BLTTDS gồm các quy định về căn cứ, thời hạn, thẩm quyền và hình thức hoãn phiên tòa.
a.Về căn cứ hoãn phiên tòa
- Trường hợp thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư kí tòa án, Kiểm sát viên,
- Trường hợp thay đổi người giám định, người phiên dịch
- Trường hợp đương sự, người đại diện của ho, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt theo quy định tại Điều 227.
- Trường hợp người làm chứng vắng mặt theo quy định tại Điều 229.
- Trường hợp người giám định vắng mặt
- Trường hợp người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế
- Căn cứ Điều 241.
b.Thời hạn hoãn phiên tòa
Thời hạn hoãn phiên Tòa không qua 1 tháng, đối với phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn thì thời hạn không quá 15 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn.
c.Thẩm quyền hoãn phiên tòa
Do Hội đồng xét xử quyết định.
a.Bắt đầu phiên Tòa
Thủ tục bắt đầu phiên Tòa được quy định từ Điều 239 đến Điều 246. Gồm các nội dung:
+ Khai mạc phiên tòa
+ Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
+ Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
+ Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng
+ Hỏi đương sự về việc bổ sung, rút yêu cầu
+ Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
+ Thay đổi địa vị tố tụng
+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Được quy định từ Điều 247 đến Điều 263 gồm các nội dung
+ Nội dung và phương thức tranh tụng
III.Phân tích, đánh giá những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
1.Những điểm mới trong phần quy định chung về phiên tòa sơ thẩm
1.1.Bổ sung quy định về địa điểm tổ chức phiên tòa
Theo quy định tại Điều 223 BLTTDS 2015, phiên tòa được tổ chức tại trụ sở Tòa án hoặc có thể ngoài trụ sở Tòa án nhưng phải đảm bảo tính rang nghiêm và hình thức phòng xử án quy định.
Đây là một điều mới được quy định trong BLTTDS 2015. Nội dung này được quy định thống nhất với Luật Tố tụng hành chính 2015 (Điều 150) nhằm cụ thể hóa nội dung “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử” theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trước khi BLTTDS 2015 có hiệu lực, có ý kiến cho rằng việc xét xử ngoài trụ sở Tòa án là không được pháp luật thừa nhận. Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức các phiên tòa xét xử ngoài trụ sở Tòa án (xét xử lưu động) có ý nghĩa quan trong đối với việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật, đồng thời trong nhiều trường hợp rất thuận tiến cho đương sự.
Tuy nhiên, vấn đề pháp lý của thực tiễn là chỉ có Tòa án mới được quyền quyết định địa điểm tổ chức phiên tòa dân sự hay đương sự cũng có quyền yêu cầu và thảo thuận về địa điểm tổ chức phiên tòa để đảm bảo quyền định đoạt và thuận tiện cho họ trong quá trình tố tụng? Mặt khác, nếu tiến hành phiên tòa ngoài trụ sở của Tòa án có thẩm quyền nhưng lại được tiến hành ở trụ sở của một Tòa án khác thì có phù hợp với Điều 223 không? Mặc dù còn nhiều vướng mắc cần được hướng dẫn cụ thể trong vấn đề về quyết định địa điểm tổ chức phiên tòa dân sự, nhưng BLTTDS 2015 xác định dù phiên tòa được tiến hành ở địa điểm nào thì Tòa án cũng có nghĩa vụ phải đảm bảo tính trang nghiêm và hình thức phòng xử án phải tuân theo quy định của Điều 224 bộ luật này.
1.2.Sửa đổi quy định về hoãn phiên tòa sơ thẩm trong trường hợp vắng mặt đại diện VKS nhân dân
So với BLTTDS 2004, Điều 207 không quy định rõ nếu trường hợp Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm dân sự mà Kiểm sát viên vắng mặt thì có bắt buộc Tòa án phải hoãn phiên tòa hay không, do đó hầu như gặp trường hợp này các Tòa án đều tự hiểu là cần phải hoãn phiên tòa để tránh bị Tòa án cấp trên cho rằng vi phạm nghiêm trọng tố tụng dẫn đến bị hủy án.
Đến BLDS 2015, Điều 232 phân biệt các trường hợp nhưng đều có chung quy định là không bắt buộc hoãn phiên tòa sơ thẩm nếu vắng mặt Kiểm sát viên, cụ thể:
+ Kiểm sát viên được VKS cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử, không hoãn phiên tòa.
+ Trường hợp Kiểm sát viên có mặt tại phiên tòa mà bị yêu cầu thay đổi hoặc có lý do không thể tiếp tục dự phiên tòa, nếu có Kiểm sát viên dự khuyết đã có mặt tham dự phiên tòa từ đầu thì Kiểm sát viên này sẽ được thay thế, trường hợp không có Kiểm sát viên dự khuyết thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đại diện VKS.
Như vậy, BLTTDS 2015 quy định VKS tham gia phiên tòa sơ thẩm trong trường hợp pháp luật cho phép, nhưng nếu những vụ án đó vắng Kiểm sát viên thì Tòa án không phải hoãn phiên tòa. Quy định nay hoàn toàn phù hợp bởi theo Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức VKS nhan dân 2014 VKS vừa có quyền giám sát trực tiếp, vừa có quyền giám sát gián tiếp. Trong tố tụng dân sự, VKS có mặt tại phiên tòa sơ thẩm là trách nhiệm, nghĩa vụ để giám sát việc tuân theo pháp luật, tuy nhiên chỉ bắt buộc có mặt trong một số trường hợp, nếu vắng mặt Kiểm sát viên mà hoãn phiên tòa như quy định cũ sẽ làm kéo dài thời hạn tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự đồng thời ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử của Tòa án.
1.3.Về thủ tục xét xử vắng mặt
Đây là nội dung quan trọng liên quan đến quyền tố tụng của đương sự và người tham gia tố tụng, đồng thời là căn cứ xem xét tính hợp pháp của quá trình tố tụng giải quyết vụ án dân sự.
BLTTDS 2015 tiếp tục kế thừa các quy định của BLTTDS 2004 về thủ tục xét xử vắng mặt, tuy nhiên đã có những bổ sung và thay đổi phù hợp thể hiện ở việc phân biệt thủ tục áp dụng cho trường hợp vắng mặt một hoặc một số đương sự với thủ tục áp dụng cho trường hợp xét xử vắng mặt tất cả đương sự và người tham gia tố tụng.
+ Về thủ tục áp dụng cho trường hợp vắng mặt một số đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về cơ bản không có gì thay đổi so với BLTTDS 2004, tuy nhiên có sửa đổi bổ sung một số điểm tại khoản 2 Điều 227 bảo đảm sự thống nhất trong pháp luật, không dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau. Cụ thể là là bổ sung trường hợp khi Tòa án triệu tập lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử. Khoản 2 Điều luật cũng bổ sung đối với trường hợp nếu vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa. Việc bổ sung nội dung này là để quy định rõ thẩm quyền xử lí của Tòa án, việc hoãn phiên tòa hay vẫn xét xử trong trường hợp này thuộc thẩm quyền của Tòa án. BLTTDS 2004 chỉ quy định nội dung về sự kiện bất khả kháng, nhưng BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm trường hợp trở ngại khách quan.
BLTTDS 2015 phân định rõ các trường hợp khác nhau khi bị đơn vắng mặt (điểm b, c Điều 227). Nếu như trước đây bị đơn vắng mặt không có người đại diện tham gia phiên tòa, không phân biệt có yêu cầu phản tố hay không thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt. Hiện nay, BLTTDS 2015 quy định rõ bị đơn không có yêu cầu phản tố mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án mới tiến hành xét xử vắng mặt họ. Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Ngoài ra , điểm a và điểm d Khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015 thay vì quy định như trước đây, nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại nếu thời điểm nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn thì nay quy định: nguyên đơn, người có quền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, bị đơn (điểm c khoản 2 Điều này) có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật. Việc sửa đổi, bổ sung như vạy là hợp lý vì theo quy định của BLTTDS 2015 thì Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc. Việc sửa đổi, bổ sung như trên đã khắc phục được những vướng mắc trong BLTTDS trước kia.
Mặt khác, cần hiểu là về nguyên tắc Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần, do vậy không được tính hai lần cho từng đương sự khác nhau. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 chưa quy định rõ là khi Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ ba, thứ tư… và đương sự có sự kiện bất khả kháng thì Tòa án giải quyết như thế nào, nếu là hoãn phiên tòa thì vụ án được hoãn bao nhiêu lần khi đương sự có sự kiện bất khả kháng, không ủy quyền cho người đại diện tham gia phiên tòa, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và nguyên đơn không rút đơn. Đây là một vấn đề cầnđược Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn để bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
+ Về thủ tục áp dụng trong trường hợp tòa án xét xử vắng mặt tất cả các đương sự được bổ sung thêm. Theo đó Tòa án được xét xử vắng mặt tất cả các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi có tất cả các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 238 BLTTDS 2015. Như vậy, trong trường hợp phiên tòa sơ thẩm vắng mặt tất cả đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xét xử. Trình tự phiên tòa sơ thẩm áp dụng cho trường hợp này thực hiện theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 238 BLTTDS 2015.
1.4.BLTTDS 2015 quy định chi tiết về nội quy phiên tòa so với BLTTDS 2004.
Nội quy phiên tòa đã được quy định khái quát tại Điều 209 BLTTDS 2004 và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều này và các quy định khác của pháp luật ban hành nội quy phiên tòa. Thực hiện quy định này, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 01/2014/TT-CA ngày 28/4/2014 về nội quy phiên tòa. Tuy nhiên, BLTTDS 2015 đã luật hóa nội dung này một cách chi tiết, cụ thể tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, và 7 Điều 234. Một điểm được sửa đổi, bổ sung so với trước đây là quy định mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi HĐXX vào phòng xử án và cả khi tuyên án, trừ trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa.
2.Những điểm mới trong phần trình tự phiên tòa sơ thẩm
BLTTDS 2015 quy định trình tự phiên tòa sơ thẩm dân sự cả về nội dung và hình thức có rất nhiều sự khác biệt so với BLTTDS 2004.
BLTTDS 2004 quy định trình tự phiên tòa sơ thẩm chỉ có 2 mục là: thủ tục bắt đầu phiên tòa và thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
BLTTDS 2015 quy định về trình tự phiên tòa gồm 3 mục: thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh tụng tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
+ Phần thủ tục bắt đấu phiên tòa dân sự sơ thẩm trong BLTTDS 2015 có những thay đổi: Theo Điều 239 các nội dung: nghe lời trình bày của đương sự; hỏi đương sự, hỏi người làm chứng; công bố tài liệu của vụ án; nghe, xem băng ghi âm ghi hình, đĩa ghi hình, xem vật chứng; hỏi người giám định… không còn nằm trong thủ tục bắt đầu phiên tòa mà chuyển thành nội dung trong phần tranh tung tại phiên tòa. Theo đó, nội dung của thủ tục khai mạc phiên tòa chỉ còn: khai mạc phiên tòa, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, xem xét hoãn phiên tòa, quyết định các biện pháp tố tụng đẻ đảm bảo tính khách quan của người làm chứng (ví dụ như các ly người làm chứng với nhau hoặc người làm chứng với đương sự trong quá trình diễn ra phiên tòa để họ độc lập trình bày). Hỏi và giải quyết việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự, xem xét việc thay đổi địa vị tố tụng của đương sự sau khi rút yêu cầu, xem xét, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Tuy nhiên, trong thủ tục khai mạc phiên tòa sơ thẩm BLTTDS 2015 bổ sung thêm hai nội dung: Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng cam kết khai báo đúng sự thật, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên; yêu cầu người giám định, người phiên dịch cam kết cung cấp kết quả giám định chính xác, phiên dịch đúng nội dung cần phiên dịch. Việc bổ sung quy định này là rất hợp lý bởi những người này không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp trong vụ án nhưng họ có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ Tòa án và các đương sự xác định sự thật khách quan trong vụ án.
+ Phần tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự: đây là nội dung hoàn toàn mới, điều này cho thấy tố tụng dân sự của Việt Nam trong quan điểm lập pháp được xác định chú trọng là yếu tố tranh tụng. Quan điểm này là sự cụ thể hóa Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 về hoạt động tố tụng của tòa án. Điều 247 BLTTDS 2015 quy định về nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
Trong phần tranh tụng của phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự, BLTTDS 2015 bổ sung thêm thủ tục tạm ngừng phiên tòa quy định tại Điều 259. Quy định này đã có sự phân biệt rõ ràng căn cứ tạm ngừng phiên tòa với căn cứ hoãn phiên tòa để bảo đảm sự áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử. Đồng thời cũng giải quyết được những vướng mắc trong thực thiễn xét xử theo quy định của BLTTDS 2004. Qua thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp cần tạm ngừng phiên tòa để đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án nhưng chưa được quy định như: thu thập bổ sung chứng cứ, đưa thêm người tham gia tố tụng…
Ngoài ra, BLTTDS 2015 có sự đổi trong việc quy định về những nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm (Điều 262). Điểm mới của bộ luật này là giao trách nhiệm cho VKS phải phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Một điểm mới nữa là việc bổ sung phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của cả Thư kí phiên tòa và bổ sung quy định về việc ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa để lưu vào hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là khi những người tham gia tố tụng có vi phạm pháp luật mà Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa thì có hậu quả gì, HĐXX giải quyết như thế nào, có đưa vào bản án để đánh giá không? Đây là nội dung chưa được quy định rõ.
+ phần nghị án và tuyên án của Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự trong BLTTDS 2015 kế thừa đầy đủ các quy định của BLTTDS 2004. Trong thực tiễn tư pháp Việt Nam, vấn đề tuyên án đã từng được hướng dẫn như sau: khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ những trường hợp được chủ tọa cho phép. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX đọc bản án, nếu bản án dài có thể thay nhau đọc, sau khi đọc xong bản án tùy vào từng trường hợp cụ thể, chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo của đương sự. Đối với đương sự không biết tiếng việt thì sau khi tuyên án xong người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án…Tuy nhiên, thực tế xét xử thì thời gian nghị án rất hạn hẹp, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không thể viết cặn kẽ từng tình tiết một trong bản án, do đó nếu đòi hỏi viết một bản án có đầy đủ các phần nêu trên sẽ gây áp lực cho thẩm phán và dễ gây ra sai sót khi tuyên án.
III.Kiến nghị
Điều 267 BLTTDS 2015 quy định trường hợp đương sự cần có người phiên dịch thì người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án hoặc phần mở đầu và phần quyết định của bản án được tuyên công khai. Nhưng người phiên dịch sẽ dịch lại cho đương sự nghe lúc nào, ngay sau khi tuyên án hay là sau một khoảng thời gian nhất định. Điều này BLTTDS 2015 chưa quy định rõ. Bản án của toà án là phán quyết nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp dân sự. Việc dịch bản án phải chính xác, vì vậy cần có thời gian để người phiên dịch dịch bản án sang tiếng nước ngoài. Khoảng thời gian đó vừa đủ cho người phiên dịch có thể thực hiện được công việc của mình đồng thời phải đảm bảo đủ thời gian cho đương sự thực hiện quyền kháng cáo. Do đó Điều 267 BLTTDS cần quy định theo hướng “trường hợp đương sự cần có người phiên dịch thì chậm nhất sau năm ngày kể từ ngày tuyên án, toà án phải triệu tập đương sự đến nghe người phiên dịch dịch toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết”.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cách giải quyết những vấn đề phát sinh từ việc thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự theo quy định của Điều 245, như tên vụ án, tư cách đương sự trong hồ sơ, quan hệ pháp luật tranh chấp... Khi thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự thì tư cách đương sự trong hồ sơ, quan hệ pháp luật tranh chấp… sẽ thay đổi. Cho nên, BLTTDS cần quy định rõ kể từ thời điểm thay đổi địa vị tố tụng các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng thêo địa vị được thay đổi đồng thời trong biểu mẫu sổ thụ lý vụ án dân sự cần có thêm cột ghi chú tất cả những thay đổi đó.
“Phạm vi yêu cầu” (yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập) quy định tại Điều 244 là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi, nên hiểu phạm vi yêu cầu bao gồm các loại yêu cầu hay phạm vi về giá trị của yêu cầu. Về yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là yêu cầu được nêu trong đơn khởi kiện chứ không phải là yêu cầu tại buổi hòa giải cuối cùng. Để bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự thì các đương sự phải được biết trước các yêu cầu của đương sự phía bên kia để chuẩn bị tài liệu, chứ cứ phản đối yêu cầu đó. Vì vậy, tại phiên toà đương sự được quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu nhưng không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu. Không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng thời không được tăng giá trị yêu cầu, có nghĩa không được gây bất lợi cho các đương sự khác.
Bổ sung nội dung Điều 267 theo hướng khi tuyên án, HĐXX chỉ đọc phần căn cứ và phần quyết định của bản án. Sau khi tuyên án, HĐXX sẽ có trách nhiệm hoàn chỉnh bản án rồi mới phát hành.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm