Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 khi xảy ra tranh chấp, Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
Nếu các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất để yêu cầu hòa giải. Kết quả hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã xảy ra một trong hai trường hợp sau:
Trường hợp 1: Hòa giải thành (sẽ kết thúc tranh chấp)
Trường hợp 2: Hòa giải không thành
Luật sư tư vấn pháp luật về sở hữu trí tuệ công ty luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900.6198
Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết (khởi kiện tại Tòa án)
Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 thì chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp sau:
Theo thủ tục hành chính:
Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất giải quyết.
Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết.
Theo thủ tục tố tụng dân sự (khởi kiện tại Tòa án nhân dân nơi có đất đang tranh chấp):
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán ngày 05/05/2017 hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH 13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án quy định: Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện.
Như vậy, mọi tranh chấp đất đai đều phải bắt buộc hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp, nếu không hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì sẽ không được quyền khởi kiện tại tòa án hoặc yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện giải quyết.
Theo khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán ngày 05/05/2017 hướng dẫn một số quy định tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH 13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án thì đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất sau thì thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp không phải là điều khởi kiện vụ án (không cần hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã).
Cụ thể: (i) Tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất; (ii) Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất; (iii) Tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất… (iv) Khi xảy ra tranh chấp đất liên quan đến đất đai như là giao dịch (mua bán nhà đất), thừa kế quyền sử dụng đất…thì sẽ không giải quyết theo quy định của Luật Đất đai (không phải hòa giải tại UBND cấp xã) mà các bên sẽ tự hòa giải, thương lượng hoặc khởi kiện tại Toà án.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm