Ly thân sau hôn nhân là một vấn đề rất phổ biến, mặc dù việc ly thân vẫn chưa được pháp luật thừa nhận. Vậy có được chia tài sản trong thời gian ly thân không? Để được giải đáp vấn đề này, mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây.
Ly thân có được chia tài sản không?
Ly thân là việc vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ chung sống trong khi quan hệ hôn nhân chưa chấm dứt hoặc không chấm dứt.
Theo các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình, vẫn chưa có thuật ngữ cụ thể nào giải thích ly thân là gì, tuy nhiên có thể hiểu đơn giản rằng Ly thân là sự chấm dứt nghĩa vụ chung sống của vợ chồng lâu nay nhưng quan hệ hôn nhân vẫn chưa chấm dứt hoặc không chấm dứt.
Pháp luật nhà nước ta chưa ghi nhận về chế định ly thân nên thuật ngữ này không có ý nghĩa pháp lý, luật hôn nhân và gia đình Việt Nam đã có từ rất sớm, kể từ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, 1986 và Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đều không ghi nhận về việc ly thân của vợ chồng. Vì vậy nếu vợ chồng yêu cầu tòa án công nhận thì các tòa án sẽ bác đơn xin ly thân của họ. Nếu vợ chồng muốn sống xa nhau và yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng thì Tòa án sẽ áp dụng quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hiện có để giải quyết yêu cầu của vợ chồng.
Không giống với thủ tục ly hôn, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng như các văn bản hiện hành không có quy định nào về vấn đề này, cũng không có quy định nào về trình tự, thủ tục ly thân giữa vợ và chồng. Việc này cũng không phải là cơ sở bắt buộc trước khi giải quyết ly hôn. Vì vậy, bản chất của quá trình này là vợ và chồng không ở cùng nhau, họ ăn ở với nhau, họ sống cùng nhau,...
Việc ly thân giữa vợ và chồng không thuộc tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo Điều 28 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, không thể yêu cầu Tòa án giải quyết đơn xin ly hôn của mình. Thủ tục ly thân do vợ chồng thương lượng, thống nhất. Vợ/chồng có thể đồng ý với điều này bằng văn bản thông qua một mẫu đơn.
Ly thân có được chia tài sản không?
Ly thân là khi vợ chồng không còn ràng buộc nhau trong chuyện tình cảm, kinh tế, mỗi người sống một nơi, có trường hợp đặc biệt tiếp tục sống chung một nhà nhưng không có sự ràng buộc nào.
Về cơ bản, việc ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân, do đó, tài sản có được trong thời gian ly thân vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng nên cả vợ và chồng vẫn có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án chia tài sản nếu hai người quyết định ly hôn. Ngoại trừ trường hợp tài sản mà mỗi cá nhân có được là thông qua thừa kế riêng hoặc được tặng cho riêng thì sẽ không nằm trong danh mục cần chia tài sản.
Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014, tài sản chung của vợ, chồng bao gồm:
"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung."
Theo đó, Điều 59 của luật này cũng quy định:
"1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng:
(i) Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia tài sản một phần hoặc chia toàn bộ tài sản chung, trừ các trường hợp:
Việc chia tài sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình; Quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con chưa thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự nuôi mình.
Mục đích của việc chia tài sản là để trốn tránh các nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ nâng cao và hỗ trợ; nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại; Nghĩa vụ thanh toán khi bị toà án tuyên bố phá sản; Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân và tổ chức; thuế hoặc các nghĩa vụ tài chính khác đối với chính phủ; Các nghĩa vụ tài sản khác được quy định trong luật này, Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
(ii) Thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản. Văn bản chia tài sản này phải được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của hai vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
(iii) Theo yêu cầu của một trong hai bên, Toà án quyết định việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định chia tài sản tại Điều 59 của luật này.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm