Hôn nhân là việc xác lập quan hệ vợ chồng của nam và nữ sau khi đăng ký kết hôn. Pháp luật hôn nhân luôn đề cao sự tự nguyện thể hiện ý chí của các chủ thể khi tham gia xác lập mối quan hệ hôn nhân nhằm mục đích chung sống và cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên thực tế cuộc sống vẫn luôn có trường hợp hôn nhân được xác lập không nhằm mục đích xây dựng gia đình mà vì những lợi ích về kinh tế hoặc lừa dối để kết hôn.
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định các trường hợp cấm đăng ký kết hôn trong đó có trường hợp lừa dối để đăng ký kết hôn, cụ thể như sau: "Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;”
Khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định: “Lừa dối kết hôn” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.
Xem thêm tại:
- Dịch vụ pháp lý về hợp đồng hôn nhân
- Dịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hôn nhân gia đình
Nguyên tắc xử lý hành vi lừa dối kết hôn
Về nguyên tắc, Nhà nước sẽ không thừa nhận các trường hợp kết hôn mà thiếu sự tự nguyện của một trong hai bên hoặc cả hai bên nam nữ khi kết hôn. Do vậy, việc kết hôn trái pháp luật do bị lừa dối kết hôn sẽ bị Toà án có thẩm quyền xem xét và huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó.
Tuy nhiên, huỷ kết hôn trái pháp luật do lừa dối kết hôn gây ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của hai người kết hôn trái pháp luật và con cái của họ. Vì vậy, khi xử lý các trường hợp trên, Toà án phải điều tra làm rõ hành vi vi phạm, mức độ vi phạm cũng như hoàn cảnh vi phạm, đặc biệt là phải xem xét và đánh giá thực chất quan hệ tình cảm giữa hai người từ khi kết hôn cho đến khi toà án xem xét cuộc hôn nhân đó, để từ đó toà án có quyết định xử lý đúng đắn, bảo đảm thấu tình đạt lý.
Ai được quyền yêu cầu hủy kết hôn do bị lừa dối?
Khi việc kết hôn có hành vi lừa dối thì được xác định có căn cứ để Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu. Vậy ai là người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật trong trường hợp nêu trên? Để trả lời cho câu hỏi này thì theo Điều 10 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định:
(i) Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
(ii) Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014: a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ.
(iii) Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Như vậy, đối với trường hợp kết hôn do bị lừa dối, thì người bị lừa dối có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc nếu không thể tự mình thực hiện thì có thể đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp những cá nhân, tổ chức khác phát hiện có dấu hiệu lừa dối kết hôn thì có thể đề nghị Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ để các cơ quan này yêu Tòa án tuyên bố hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Về quan hệ nhân thân
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Trong trường hợp các bên không tuân theo quy định ấy và vẫn duy trì quan hệ như vợ chồng thì:
Nếu cả hai bên tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân một cách tự nguyện, thì coi như không còn sự cưỡng ép hoặc lừa dối. Hai bên có thể thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Nếu không đăng kí kết hôn lại, hai bên rơi vào tình trạng chung sống như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn, đây là trường hợp mà pháp luật không cấm nhưng cũng không khuyến khích. Nếu một trong hai bên hoặc người thứ ba tiếp tục tiếp tục cưỡng ép bên kia duy trì quan hệ như vợ chồng trái với ý chí của bên kia, thì người cưỡng ép có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự.
Về quan hệ tài sản
Theo quy định của pháp luật, quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên khi việc kết hôn bị hủy do bị lừa dối được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
(i) Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
(ii) Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Như vậy, sau khi việc kết hôn bị hủy, tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Tài sản chung được chia theo thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và các con. Không có quan hệ vợ chồng, không có cơ sở để xác lập quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng giữa hai bên trong trường hợp một bên lâm vào cảnh sống túng thiếu sau khi hôn nhân bị huỷ.
Về quan hệ giữa cha, mẹ và con
Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, khi việc kết hôn trái pháp luật do lừa dối bị huỷ, thì quyền lợi của con cái được giải quyết như khi ly hôn. Theo đó, cha mẹ vẫn tiếp tục có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng đồng thời có quyền thăm nom con… Trường hợp cha mẹ tiếp tục chung sống như vợ chồng thì các vấn đề cấp dưỡng có thể không đặt ra nếu không có yêu cầu, cả hai bên cùng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con, tạo điều kiện tốt nhất về mọi mặt cho con.
Xem thêm tại:
- Ai có quyền hủy yêu cầu kết hôn trái pháp luật?
- Dịch vụ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình
1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân gia đình được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 024 66 527 527, E-mail: info@everest.org.vn
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm