Theo khoản 19 Điều 43 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật Sở hữu trí tuệ) thì “Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau”.
Nhãn hiệu liên kết có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể: Các nhãn hiệu này phải do cùng một chủ thể đăng ký thì mới được coi là nhãn hiệu liên kết.
Thứ hai, đặc điểm về nhãn hiệu: Bên cạnh, cùng một chủ thể đăng ký, các nhãn hiệu được coi là nhãn hiêu liên kết phải thỏa mãn điều kiện là các nhãn hiệu này có dấu hiệu trùng hoặc tương tự nhau. “Trùng” được hiểu là hoàn toàn giống nhau về cả nội dung và hình thức, “tương tự” có nghĩa là giống nhau về cả mặt hình thức và nội dung nhưng có điểm khác biệt cụ thể mà có thể nhận ra được bằng tên gọi, công dụng, tính năng của sản phẩm, dịch vụ đó.
Thứ ba, đặc điểm về sản phẩm, dịch vụ: Các nhãn hiệu này phải có liên quan tới nhau về mẫu nhãn hiệu và nhóm ngành sản phẩm dịch vụ cung cấp. Ví dụ: Một doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu BATA cho sản phẩm là giày thì các nhãn hiệu của cùng doanh nghiệp đăng ký như BATAA, BATATA, BATTA… cho cùng sản phẩm giày được coi là các nhãn hiệu, thương hiệu liên kết.
Như vậy, nhãn hiệu liên kết còn có tên là nhãn hiệu bao vây, mục đích của việc đăng ký nhãn hiệu liên kết là nhằm ngăn chặn bên thứ ba đăng ký những nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu mà doanh nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ.
Theo Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn chi tiết thủ tục đăng ký nhãn hiệu liên kết, như sau: "Đối với nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu liên kết, người nộp đơn phải chỉ rõ các yếu tố liên kết về nhãn hiệu hoặc về hàng hoá, dịch vụ tuân theo quy định sau đây: (i) Trong trường hợp yếu tố liên kết là nhãn hiệu (tương tự với nhãn hiệu khác của chính người nộp đơn dùng cho cùng một hàng hoá, dịch vụ hoặc dùng cho các hàng hoá, dịch vụ tương tự nhau) thì phải chỉ rõ trong số các nhãn hiệu liên kết đó có nhãn hiệu nào được coi là cơ bản hay không, nếu có thì đó là nhãn hiệu nào; nếu một hoặc một số trong các nhãn hiệu đó đã được đăng ký hoặc đã được nêu trong đơn nộp trước đó thì phải chỉ rõ số văn bằng bảo hộ, số đơn nộp trước đó;
(ii) Trong trường hợp yếu tố liên kết là hàng hoá, dịch vụ (một nhãn hiệu dùng cho các hàng hoá, dịch vụ tương tự nhau hoặc có liên quan với nhau) thì phải chỉ rõ trong số các hàng hoá, dịch vụ đó có hàng hoá, dịch vụ nào được coi là cơ bản hay không và nếu có thì đó là hàng hoá, dịch vụ nào; nếu một trong các hàng hoá, dịch vụ đó đã được đăng ký trước hoặc đã được nêu trong đơn nộp trước đó thì phải chỉ rõ số văn bằng bảo hộ, số đơn nộp trước đó; (iii) Nếu người nộp đơn không chỉ rõ nhãn hiệu cơ bản hoặc hàng hoá, dịch vụ cơ bản thì tất cả các nhãn hiệu và tất cả các hàng hoá, dịch vụ liên quan đến nhãn hiệu nêu trong đơn của người nộp đơn được coi là độc lập với nhau. Việc đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu nêu trong đơn sẽ không được áp dụng ngoại lệ đối với nhãn hiệu liên kết quy định tại điểm e khoản 2 Điều 74 của Luật Sở hữu trí tuệ, mà phải tuân theo quy định chung về đánh giá khả năng phân biệt quy định tại điểm 39 của Thông tư này"(tiểu mục 37.4.b).
Khuyến nghị của công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm