Căn cứ theo điều 2 luật tố cáo năm 2018, tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Đối tượng bị tố cáo trong trường hợp này là
Cán bộ, công chức, viên chức; người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ,
Người không còn là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian là cán bộ, công chức, viên chức; người không còn được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Cơ quan, tổ chức
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực là tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào về việc chấp hành quy định của pháp luật, trừ hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Luật sư tư vấn pháp luật công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900.6198
Chủ thể tố cáo là cá nhân thực hiện việc tố cáo. Luật tố cáo năm 2018 quy định chỉ công dân mới có quyền tố cáo.
Trong thực tiễn cho thấy, chủ thể thực hiện việc tố cáo rất đa dạng, là cơ quan, tổ chức tuy có nhưng rất ít, trường hợp đơn tố cáo ký tên nhiều người dưới danh nghĩa là tổ chức không phải là nhiều. Nội dung tố cáo này thường thiên về phản ánh, kiến nghị. Việc thực hiện quyền tố cáo của một chủ thể sẽ làm phát sinh những hậu quả pháp lý và trách nhiệm gắn với cá nhân. Việc quy định công dân (cá nhân) có quyền tố cáo là phù hợp với Hiến pháp và chính sách hình sự của nước ta – cá thế hoá trách nhiệm hình sự. Người tố cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi tố cáo của mình, nếu tố cáo sai sự thật thì phải bị xử lý về hành chính hoặc hình sự tùy theo tính chất và mức độ vi phạm. Vì vậy, nếu quy định cơ quan, tổ chức có quyền tố cáo thì có thể làm phát sinh những vấn đề phức tạp, chưa lường hết được những tác động liên quan đến cách thức để các chủ thể này thực hiện quyền tố cáo, nhất là khi xác định trách nhiệm của người tố cáo trong trường hợp cố tình tố cáo sai, tố cáo trái pháp luật. Việc xác định tố cáo có thực sự thể hiện ý chí của pháp nhân hay chỉ là nhóm cá nhân mượn danh nghĩa cơ quan, tổ chức cũng là công việc phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Do đó, việc quy định phương thức, thủ tục, trình tự tố cáo và giải quyết tố cáo chung cho mọi loại cơ quan, tổ chức là hết sức khó khăn. Bên cạnh đó, tuy luật tố cáo hiện hành không quy định về quyền tố cáo của cơ quan, tổ chức, song vẫn còn nhiều cơ chế khác để các cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin về hành vi vi phạm pháp luật cho các cơ quan có thẩm quyền (ví dụ như thông qua việc khiếu nại, kiến nghị, phản ánh, tin báo về tội phạm…), trong nhiều trường hợp đây còn là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
Mục đích của người tố cáo
Tố cáo vì lợi ích của nhà nước hay các cơ quan nhà nước khác
Mục đích chung
Tố cáo thể hiện ý thức đấu tranh, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật đối với các hành vi vi phạm, người tố cáo không chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn vì lợi ích của nhà nước, của cộng đồng. Như vậy, chỉ khi công dân có được ý thức pháp luật, có tinh thần đấu tranh vì sự công bằng, vì sự nghiêm minh của pháp luật thì mới có thể thực hiện việc tố cáo.
Tố cáo nhằm giúp công dân nhận thức được ý thức và trách nhiệm của mình trong việc đấu tranh đối với các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra trong xã hội.
Đối tượng tố cáo ở đây là các hành vi vi phạm pháp luật
Đối tượng bị tố cáo là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm