Trong việc thực hiện một số giao dịch mua bán, cho thuê mua… chúng ta thường thấy rằng nếu muốn tăng tính rằng buộc trách nhiệm của các bên liên quan. Tuy nhiên, đáng lưu ý là nhiều người còn nhầm lẫn giữa hai hình thức “đặt cọc” và “trả trước”, hay tiền đặt cọc và tiền trả trước.
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực trên - Gọi tổng đài tư vấn pháp luật 1900.6198
Điểm khác biệt trong khái niệm
Khái niệm đặt cọc:
Theo Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1, đặt cọc có thể được hiểu là: một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao một số tiền hoặc kim khí quý, đá quý cho bên kia (sau đây gọi là người nhận tiền đặt cọc) hoặc các vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời gian để bảo đảm việc giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Khái niệm Trả tiền trước:
Luật hiện hành không quy định về "trả tiền trước". Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng, có thể hiểu đơn giản rằng khoản trả trước là khoản thanh toán của con nợ. Ứng trước một khoản tiền cho bên có quyền. Không cần phải nói rằng điều này chỉ liên quan đến việc hoàn thành trước một phần nghĩa vụ, tức là việc giao một phần khoản tiền.
Hiện nay, nhiều người vẫn nhầm lẫn giữa đặt cọc và trả tiền trước, việc phân biệt giữa đặt cọc và tiền trả trước là rất quan trọng, vì hậu quả pháp lý của chúng là khác nhau như phạt cọc hay xử lý tiền trả trước.
Sự khác biệt trong hậu quả pháp lý khi có vi phạm
Đối với đặt cọc:
(i) Nếu hợp đồng được giao kết hoặc hợp đồng được xử lý thực hiện thì quyền sở hữu đối với khoản tiền đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được khấu trừ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán;
(ii) Nếu người đặt cọc từ chối giao kết và từ chối thực hiện hợp đồng thì quyền sở hữu tiền đặt cọc thuộc về người nhận tiền đặt cọc;
(iii) Nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc số tiền đặt cọc và một khoản tiền bằng giá trị khoản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 328 Bộ luật Dân sự khoản 2 năm 2015).
(iv) Do việc đặt cọc là thỏa thuận pháp luật dân sự nhằm đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ giữa các bên nên các bên có thể thỏa thuận mức phạt cọc từ hai lần trở lên giá trị tài sản đặt cọc, điều này phải được ghi trong hợp đồng., Điều này được tính là một khoản phạt theo hợp đồng.
Bạn đọc có thể tham khảo thêm nội dung liên quan tại đây
Đối với trả tiền trước:
Nếu một bên vi phạm nghĩa vụ hoặc không giao kết hợp đồng như dự định ban đầu thì về nguyên tắc, khoản thanh toán trước sẽ được hoàn lại cho bên thanh toán và không phải chịu bất kỳ khoản thanh toán nào. Điểm này hoàn toàn khác với hậu quả pháp lý của việc đặt cọc.
Lưu ý: Ngoài ra, có một điểm cần lưu ý nữa, theo quy định tại Điều 29 Nghị định 163/2006 / NĐ-CP: Trong trường hợp một trong các bên giao cho bên kia một khoản tiền mà các bên không ghi rõ là tiền đặt cọc hoặc tiền trả trước thì số tiền này được coi là tiền trả trước.
Trên đây là sự khác nhau giữ đặt cọc và trả tiền trước, các bạn lưu ý hai hình thức này khi phát sinh hợp đồng giao dịch, đặt biệt hợp đồng có tính pháp lý một cách phù hợp.
Xem thêm: Các vấn đề pháp lý về đặt cọc
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hình sự được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm