Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định, một vụ án có thể được xét xử theo 4 thủ tục là thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Mỗi loại thủ tục đều có đặc điểm và ý nghĩa khác nhau, ví dụ như thủ tục phúc thẩm được áp dụng cho các loại bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, trong khi thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm lại được áp dụng cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về thủ tục tái thẩm.
Tái thẩm là một loại thủ tục đặc biệt, chỉ áp dụng loại thủ tục này để xét xử lại các bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật do phát hiện ra tình tiết mới mà tình tiết này có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết đinh đó mà Tòa án không thể biết được khi ra. Tính đặc biệt của nó được thể hiện ở sự khác biệt với thủ tục phúc thẩm khi thủ tục phúc thẩm được áp dụng đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo.
Do trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án vẫn tồn tại nhiều sai sót vì nhiều lí do cả về mặt chủ quan cũng như khách quan, ví dụ như vi phạm thủ tục trong tố tụng hay có những tình tiết mà khi Tòa án ra những quyết định hay bản án đó cũng chưa thể biết được nên thủ tục tái thẩm được tạo ra để giải quyết những vấn đề đó, khắc phục những hạn chế, sai lầm của Tòa án và tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng xác định lại sự thật khách quan của vụ án hình sự để xử lý đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm cũng như phục hồi danh dự, quyền và lợi ích vật chất cho người bị oan.
Vậy đối tượng của tái thẩm là gì? Đối tượng của tái thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án nhưng bị kháng nghị tái thẩm do có những tình tiết mới phát sinh làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định mà khi ra những bản án hay quyết định đó Tòa án không thể biết được. Trong những vụ án hình sự thì mỗi một bản án hay quyết định được đưa ra đều có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của một người nên nếu tình tiết mới phát sinh làm nội dung bản án bị thay đổi nghiêm trọng thì cần được xem xét lại. Do đó, thủ tục tái thẩm là cần thiết trong tố tụng.
Xem thêm nội dung liên quan tại: giám đốc thẩm
Hoạt động tái thẩm được diễn ra khi có kháng nghị tái thẩm từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền do có tình tiết mới phát sinh làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Câu hỏi đặt ra ở đây là khi nào có căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm? Căn cứ kháng nghị tái thẩm được quy định tại Điều 398 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
Xem thêm nội dung liên quan tại:Luật hình sự mới nhất
Nguyên tắc cơ bản của thẩm quyền tái thẩm là Tòa án cấp trên sẽ có thẩm quyền xét xử tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới. Ví dụ như Tòa án cấp cao sẽ có thẩm quyền xét xử tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh.
Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm được quy định tại Điều 400 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
Xem thêm nội dung liên quan tại:giám đốc thẩm và tái thẩm
Hội đồng tái thẩm không có thẩm quyền ra quyết định mới hay bản án mới để thay thế cho bản án, quyết định bị kháng nghị của Tòa án cấp dưới cũng như không xác định lại sự thật của vụ án mà chỉ có thể phán quyết về bản án, quyết định bị kháng nghị. Nếu hội đồng tái thẩm nhận thấy các tình tiết mới làm thay đổi nội dung của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới một cách cơ bản thì sẽ ra quyết định hủy bản án hoặc quyết định đó. Còn trong trường hợp hội đồng tái thẩm nhận thấy các tình tiết đó không ảnh hưởng đến bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì sẽ giữ nguyên bản án hay quyết định đó. Nếu có căn cứ đình chỉ vụ án thì hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm