Xác định cha mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Bởi Trần Thu Thủy - 11/04/2020
view 831
comment-forum-solid 0

Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”.

- Thứ nhất, xác định cha mẹ đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh

Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”.

Đối chiếu với quy định tại Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc xác định cha mẹ trong trường hợp này căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng. Vì vậy, trong trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ, chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản. Để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ của đứa trẻ trong mọi trường hợp, kể cả khi người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi của người khác và người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ, ngay kể cả chồng không phải là người cho tinh trùng.

Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, hoặc cho phôi với đứa trẻ sinh ra. Chẳng hạn như: A và B là vợ chồng, do tinh trùng quá loãng nên B không thể có con được với A. C là người đã cho vợ chồng B tinh trùng của mình, các bác sĩ đã tiến hành và cấy thành công cho người vợ là A. A mang thai sinh ra D, lúc này D là con của A và B, tức là D là con hợp pháp của B chứ không phải là con của người cho tinh trùng đó là C.

- Thứ hai, xác định cha mẹ đối với phụ nữ độc thân

Trường hợp này được áp dụng đối với những người phụ nữ không xác lập quan hệ hôn nhân nhưng mong muốn có con. Theo đó, việc xác định cha mẹ trong trường hợp này được Luật quy định cụ thể. Theo khoản 2 Điều 93 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Tức là, người phụ nữ độc thân này đương nhiên là mẹ của đứa trẻ được sinh ra đó.

- Thứ ba, xác định cha mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Thực tế, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã mở ra cơ hội được làm cha, làm mẹ cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, tuy nhiên việc mang thai hộ phải đáp ứng các quy định của pháp luật cả về tính tự nguyện, về chủ thể (cả người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ) và các biện pháp kỹ thuật y học. Theo khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”.

Việc xác định cha mẹ đối với trường hợp này được ghi nhận cụ thể tại Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không làm phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang thai hộ với đứa trẻ được sinh ra.

- Thứ tư, thẩm quyền xác định cha, mẹ, con

Căn cứ theo quy định tại Điều 101 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì:

(i) Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp;

(ii) Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp có yêu cầu việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích của người chết có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người đã yêu cầu chết.

Quyết định của Tòa án về việc xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Xem thêm:

- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1.  Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân gia đình được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.21338 sec| 1016.531 kb