Việc đăng ký kết hôn hoàn toàn do hai bên tự nguyện, được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ theo Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Ngoài ra, Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định, cá nhân có quyền kết hôn khi đủ điều kiện.
Do đó, nếu bị ngăn cản kết hôn thì con cái có thể tự mình quyết định việc đăng ký.
Theo đó, hai người nam nữ cần chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ theo Điều 10 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định
(i) Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu;
(ii) Chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thẻ căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh;
(iii) Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú cấp.
Trường hợp đã từng kết hôn thì phải nộp thêm Quyết định ly hôn của Tòa án.
Lưu ý là: Khi đăng ký kết hôn, hai người phải cùng có mặt tại nơi cấp giấy mà không được ủy quyền cho người khác.
Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198
Nếu cha mẹ dùng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác để cố tình ngăn cản không cho con cái kết hôn thì đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Khi đó, cha mẹ có thể bị xử phạt hành chính hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự tùy vào tính chất của hành vi ngăn cấm.
Theo quy định tại Điều 55 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, người nào ngăn cấm người khác kết hôn tự nguyện, tiến bộ bằng các hành vi nêu trên thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng.
Không chỉ vậy, nếu hành vi nêu trên đã bị xử phạt hành chính nhưng vẫn tiếp tục vi phạm thì có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm theo quy định tại Điều 181 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.
Như vậy, việc cha mẹ ngăn cản hôn nhân tự nguyện, tiến bộ của con cái không chỉ gây mất đoàn kết trong gia đình mà còn là hành vi vi phạm pháp luật.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm