Chồng đánh vợ khi đang mang thai bị xử lý thế nào?

Bởi Trần Thu Thủy - 30/03/2020
view 911
comment-forum-solid 0
Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được

Về việc chuẩn bị giấy tờ khởi kiện

Thủ tục giấy tờ kiện yêu cầu ly hôn. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định thì: "Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Như vậy, trong trường hợp này người vợ có quyền đơn phương ly hôn và khi đó cần chuẩn bị hồ sơ bao gồm các loại giấy tờ sau: Đơn xin ly hôn theo mẫu; Bản sao sổ hộ khẩu; Bản sao chứng minh nhân dân; Những chứng từ chứng minh tài sản chung của vợ chồng ( Nếu có tài sản chung cần chia); Bản sao giấy khai sinh của con; Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ( Bản chính).

Các bản sao giấy tờ trên cần công chứng, chứng thực theo quy định pháp luật.

Bộ Luật tố tụng dân sự quy định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ như sau: "Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 25,27 và 31 của Bộ luật này”.

Theo đó, nộp hồ sơ sẽ nộp tại Tòa án nhân dân quận/huyện nơi người chồng đang có hộ khẩu thường trú hoặc nơi cư trú. Thời hạn giải quyết việc đơn phương ly hôn theo quy định tại Điều 179 Bộ Luật tố tụng dân sự thì có thể từ 2 đến 6 tháng. Và thời hạn mở phiên tòa là từ 1 đến 2 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900.6198

Về việc bồi thường thiệt hại

Nếu người chồng có hành vi đánh đập người vợ khiến tinh thần người vợ bị đe dọa, luôn cảm thấy bất an khi ra đường nên người chồng sẽ có trách nhiệm bồi thường theo quy định của Bộ luật dân sự vì đã xâm phạm đến sức khỏe của người vợ.

Bộ luật dân sự năm quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:

(i) Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

(ii) Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”

Như vậy, khi người chồng đã có hành vi đánh đập vợ, xâm phạm đến sức khỏe của vợ. Ngoài ra, tinh thần của người vợ cũng bị đe dọa nghiêm trọng, do đó người chồng sẽ phải bồi thường thiệt hại xảy ra nếu người vợ kiện anh ta ra tòa.

Về mức bồi thường khi ra Tòa, trước hết Tòa sẽ tôn trọng sự thỏa thuận của vợ, chồng về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường nếu thỏa thuận này không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trường hợp vợ, chồng không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào nguyên tắc bồi thường để giải quyết.

Bộ luật dân sự quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:

(i) Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

(ii) Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

(iii) Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Bộ luật dân sự quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như sau:

Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm: (i) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; (ii) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; (iii) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

Như vậy, để được bồi thường thiệt hại thì chị gái bạn cần cung cấp các chứng cứ hoặc giấy tờ biên nhân hợp lệ về các khoản chi phí hợp lý, về thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của chị bạn khi không thể đi làm. Ngoài ra, anh rể bạn còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà chị bạn phải gánh chịu.

Về việc cấu thành tội phạm với hành vi của chồng

Để xác định hành vi của người chồng có cấu thành tội phạm hình sự hay không thì trước tiên người vợ cần được đưa đến cơ sở y tế có uy tín để giám định tỷ lệ thương tích.

Như vậy, sau khi đã có kết quả giám định thương tích có thể xác định hành vi của người chồng chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính hay cấu thành tội phạm hình sự.

Bộ luật Hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau: "Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:...”

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân gia đình được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, Email: info@everest.net.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.94792 sec| 1010.414 kb