Điều kiện nuôi con nuôi theo quy định pháp luật hiện hành

view 817
comment-forum-solid 0

Nuôi con nuôi là một trong những quy định thể hiện tính nhân văn sâu sắc đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp những đứa trẻ thiếu may mắn được sống trong môi trường gia đình. Tuy nhiên, không phải ai cũng được nhận nuôi con nuôi và cũng không phải ai cũng được nhận làm con nuôi. Pháp luật đặt ra những điều kiện nhất định khi nuôi con nuôi.

Nuôi con nuôi là gì?

Nuôi con nuôi là một trong những quy định thể hiện tính nhân văn sâu sắc đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam. Khái niệm nuôi con nuôi có thể được xem xét dưới góc độ xã hội hoặc khía cạnh pháp lý.

Dưới góc độ xã hội

Quan hệ nuôi con nuôi có thể tồn tại dưới dạng:  nuôi con nuôi theo phong tục tập quán (của người Ê đê, người Dao,...); nuôi con nuôi để lấy phúc; nuôi con nuôi trên danh nghĩa (hai bên thường không sống chung, không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng vẫn gọi nhau là cha mẹ và con); nuôi con nuôi thực tế (hai bên cùng chung sống, gắn bó với nhau và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con).

Nhìn chung, khi xem xét nuôi con nuôi dưới góc độ xã hội, việc nuôi con nuôi không đòi hỏi các điều kiện chặt chẽ mà chủ yếu đáp ứng các nhu cầu về tình cảm hoặc các lợi ích tinh thần, vật chất nhất định mà các bên mong muốn đạt được. Các bên trong quan hệ không cần được công nhận về mặt pháp lý và chỉ xử sự theo tình cảm tự nhiên và chuẩn mực đạo đức con người. Do đó, người nhận nuôi có thể là bất kỳ ai, bất kỳ độ tuổi nào và không do người nhận nuôi sinh ra.

Dưới góc độ pháp lý

Khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.

Theo đó, quan hệ giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi được thiết lập một cách lâu dài, bền vững thông qua việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi các bên có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và vì lợi ích tốt nhất của trẻ được nhận làm con nuôi.

Khác với cách tiếp cận nuôi con nuôi dưới góc độ xã hội không đòi hỏi phải thực hiện thủ tục đăng ký nuôi con nuôi thì dưới góc độ pháp lý quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi chỉ được công nhận khi các bên thực hiện việc đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Thủ tục nhận cha, mẹ, con theo quy định pháp luật

nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198

Điều kiện nuôi con nuôi là gì?

Luật Nuôi con nuôi năm 2010 không những đặt ra điều kiện đối với người nhận nuôi mà còn đặt ra đối với người được nhận nuôi. Chỉ khi đáp ứng tất cả các điều kiện này thì quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi mới được Nhà nước công nhận. Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng như các văn bản hướng dẫn chưa có quy định nào giải thích thế nào là điều kiện nuôi con nuôi.

Theo từ điển Tiếng Việt, điều kiện được hiểu là “cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể”.

Có thể hiểu “điều kiện nuôi con nuôi” chính là tổng hợp những yêu cầu mà các bên chủ thể trong quan hệ pháp luật nuôi con nuôi phải đáp ứng khi xác lập quan hẹ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi.

Điều kiện nuôi con nuôi theo quy định pháp luật

Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định về điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi tại Điều 8, điều kiện đối với người nhận nuôi con tại Điều 14 và sự đồng ý của các bên tham gia quan hệ nuôi con nuôi tại Điều 21.

Đối với người được nhận làm con nuôi

Theo quy định của pháp luật thì người được nhận là con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi, trường hợp cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi thì người được nhận là con nuôi phải dưới 18 tuổi.

Trẻ em dưới 16 tuổi là đối tượng thuộc nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ không đủ điều kiện thực hiện được quyền sống, quyền được bảo vệ, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền được học tập… rất cần sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ phía gia đình, nhưng vì nhiều lý do các em không được hưởng những quyền cơ bản đó. Vì vậy, pháp luật đã tạo điều kiện - tạo ra mái ấm gia đình thứ hai để những trẻ em thiếu may mắn được sống và phát triển trong môi trường gia đình bằng cách được nhận làm con nuôi.

Ngoài điều kiện về độ tuổi, người được nhận nuôi chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai vợ chồng theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Do đó, trường hợp vợ chồng muốn nhận con nuôi chung thì phải được sự đồng ý của người còn lại. Việc quy định như trên nhằm mục đích làm tăng sự gắn kết giữa cha mẹ với con nuôi đồng thời tạo ra môi trường sống ổn định cho sự phát triển của con nuôi.

Đối với người nhận con nuôi

Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015). Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định qua 02 tiêu chí: độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Như vậy, một người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi người đó đạt độ tuổi luật định (cụ thể là người thành niên - từ đủ 18 tuổi trở lên) và có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình một cách đầy đủ (không bị mất năng lực hành vi dân sự hay không có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi).

Việc quy định người nhận nuôi con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là hoàn toàn cần thiết. Bởi, nếu họ không thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đồng nghĩa với việc họ không thể chăm lo cho chính bản thân mình và lẽ đương nhiên không thể chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt cho con nuôi.

Thứ hai, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên.

Việc quy định người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên sẽ đảm bảo cách ứng xử trong gia đình hợp với lẽ sống, truyền thống văn hóa gia đình, đồng thời ngăn ngừa tình trạng người nhận nuôi con nuôi lạm dụng tình dục đối với người con được nhận nuôi.

Điều kiện này không áp dụng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho trẻ được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gốc, đây là môi trường mà trẻ đã quen thuộc nên việc hòa nhập với gia đình mới sẽ dễ dàng hơn.

Thứ ba, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.

Người con nuôi chỉ được chăm sóc, giáo dục tốt khi người nhận nuôi có sức khỏe, có kinh tế để đảm bảo chăm lo mọi mặt cho con nuôi. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất lẫn trí tuệ và đạo đức của trẻ được nhận nuôi một cách tốt nhất.

Người nhận nuôi con nuôi được xác định là đủ khả năng kinh tế tế để đảm bảo cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi khi người nhận nuôi có thu nhập, việc làm ổn định, đủ khả năng chăm lo cho con nuôi theo mức sống trung bình tại địa phương. Người nhận nuôi con nuôi phải có chỗ ở, đó có thể là nhà ở hoặc nhà thuê nhưng phải có nơi cư trú rõ ràng.

Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng điều kiện này.

Thứ tư, có tư cách đạo đức tốt.

Một người được coi là người có tư cách đạo đức là người sống có quy tắc, chuẩn mực phù hợp với lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội.

Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì một người được coi là có tư cách đạo đức tốt khi người đó không thuộc một trong các trường hợp không được phép nhận con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Cụ thể là: Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Đây là những trường hợp nghiêm trọng, điển hình mà pháp luật cấm họ không được nhận con nuôi để bảo vệ an toàn sức khỏe, tính mạng của trẻ được nhận nuôi.

Trên thực tế, để đánh giá tư cách đạo đức của một người thường không dễ dàng, khó có cái nhìn toàn diện.

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Sự đồng ý cho làm con nuôi

Việc nhận nuôi con nuôi thường xuất phát từ ý chí, mong muốn của cha mẹ nuôi. Do vậy, cha mẹ nuôi biết trước được hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.

Để quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp, ngoài ý chí của cha mẹ nuôi thì ý chí của cha đẻ, mẹ đẻ, người giám hộ của người được nhận làm con nuôi; ý chí của con nuôi là một điều kiện tất yếu.

Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó”.

Khi quyết định cho trẻ làm con nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ luôn phải cân nhắc kỹ đến hậu quả pháp lý cũng như lợi ích của con, để con có môi trường sống tốt nhất. Mọi sự đồng ý của cha, mẹ đẻ, người giám hộ đều phải dựa trên cơ sở đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày.

Thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

Luật sư Nguyễn Thị Mai

Luật sư Nguyễn Thị Mai

https://everest.org.vn/luat-su-nguyen-thi-mai Luật sư Nguyễn Thị Mai là chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn dân sự, lao động, đất đai, hôn nhân gia đình.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
1.69804 sec| 1066.984 kb