Lợi tức từ tài sản riêng có phải là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân?

Bởi Trần Thu Thủy - 17/01/2020
view 510
comment-forum-solid 0
Căn cứ các quy định vừa trích dẫn ở trên, lợi tức thu được từ việc khai thác căn nhà này (khoản tiền bạn thu được khi cho thuê nhà) được xác định là tài sản riêng.

Hỏi: Vợ chồng tôi chưa ly hôn nhưng do không thống nhất được chuyện làm ăn nên cả hai quyết định chia hai ngôi nhà chung cho mỗi người một căn, có thỏa thuận bằng văn bản. Tôi cho thuê căn nhà mình được chia nhưng vợ lại đòi được nửa số tiền thu về với lý do đây vẫn là tài sản chung. Tôi xin hỏi pháp luật có quy định tiền thu từ tài sản riêng ở thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng không? 

Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng gồm:

- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh;

- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này;

- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;

- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Khoản 1 Điều 40 Luật này quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng”.

Nội dung này còn được hướng dẫn tại Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 cụ thể như sau: “Điều 14. Hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 1. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. 2. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng…”.

Vợ chồng bạn đã có văn bản thỏa thuận về việc chia tài sản chung nên về nguyên tắc căn nhà được chia là tài sản riêng của bạn. Căn cứ các quy định vừa trích dẫn ở trên, lợi tức thu được từ việc khai thác căn nhà này (khoản tiền bạn thu được khi cho thuê nhà) được xác định là tài sản riêng của bạn, vợ bạn không có quyền yêu cầu được chia nửa số tiền đó (trừ trường hợp vợ chồng bạn có thỏa thuận khác).

Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng gồm:

- Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh;

- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này;

- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;

- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Khoản 1 Điều 40 Luật này quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng”.

Nội dung này còn được hướng dẫn tại Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 cụ thể như sau: “Điều 14. Hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 1. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. 2. Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác thì phần tài sản được chia; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng khác của vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng…”.

Vợ chồng bạn đã có văn bản thỏa thuận về việc chia tài sản chung nên về nguyên tắc căn nhà được chia là tài sản riêng của bạn. Căn cứ các quy định vừa trích dẫn ở trên, lợi tức thu được từ việc khai thác căn nhà này (khoản tiền bạn thu được khi cho thuê nhà) được xác định là tài sản riêng của bạn, vợ bạn không có quyền yêu cầu được chia nửa số tiền đó (trừ trường hợp vợ chồng bạn có thỏa thuận khác).

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân và gia đình được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.94505 sec| 999.289 kb