Vụ án "tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn" (Quảng Ngãi): Viện kiểm sát kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, vì sao?

view 5971
comment-forum-solid 0

Sau khi xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp tài sản sau khi ly hôn tại huyện Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi), người chồng (bị đơn) được chia mảnh đất không có giấy tờ, còn phải thối lại cho vợ hơn 231 triệu đồng - gần như trắng tay. Người vợ (nguyên đơn) được chia mảnh đất trị giá 1,2 tỷ đồng, được giữ số tiền mặt 2,59 tỷ đồng, nhận số tiền chồng thối lại 231 triệu đồng - tổng cộng hưởng bốn (04) tỷ đồng (làm tròn).

Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ (tỉnh Quảng Ngãi): Bản án sơ thẩm số 01/2020/HNGĐ-ST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) đã vi phạm tố tụng, ảnh hưởng nghiêm trọng quyền và lợi ích của đương sự nên cần hủy toàn bộ để xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.

Các luật sư của Công ty Luật TNHH Everest (bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, chồng) chỉ ra: việc chia tài sản 'bất đối xứng' đặt ra nghi vấn có chứng cứ bị làm giả, vụ án còn có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kiến nghị chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xác minh, xử lý theo thẩm quyền.

Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân - Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

- Chia tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn 'bất đối xứng'- người bốn tỷ, người tay trắng

- Chị Văn Thị Kim Tân (nguyên đơn) trình bày tại đơn khởi kiện ngày 17/11/2017, đơn khởi kiện bổ sung ngày 18/12/2017, đơn thay đổi nội dung khởi kiện ngày 28/02/2018, các bản tự khai: chị Văn Thị Kim Tân và anh Nguyễn Mai có tạo lập được khối tài sản chung, gồm: Thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi; quyền sử dụng đất (theo giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Lê Thị Hảo cho anh Mai, chị Tân) và 01 căn nhà nằm trên thửa đất này; một số vật dụng trong nhà gồm 02 cái giường, 01 bộ bàn, 01 cái tủ đứng. Cũng trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng chị có vay tiền của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, hiện nay số tiền còn nợ Ngân hàng là 200.000.000 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết.

Năm 2017, vợ chồng chị được Tòa án giải quyết cho ly hôn nhưng vợ chồng chị lúc đó không yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung khi ly hôn. Nay, chị Tân yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn và chị yêu cầu được nhận thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh, giao cho anh Mai được nhận ngôi nhà và đất tại thửa đất nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Hảo. Bên nào nhận giá trị cao hơn thì thối lại giá trị chênh lệch cho bên kia. Đối với khoản nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 200.000.000 đồng nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng đã ký kết thì mỗi người có trách nhiệm trả một nửa.

Tại phiên tòa chị Tân thay đổi ý kiến đó là yêu cầu được nhận nhà và đất tại thửa đất nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Hảo và giao cho anh Mai thửa đất 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh, Đồng thời, chị Tân xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia 02 cái giường, 01 bộ bàn và 01 cái tủ đứng.

- Anh Nguyễn Mai (bị đơn) trình bày tại đơn yêu cầu phản tố ngày 19/04/2019 và các bản tự khai: Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, gồm: Thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh; tiền bán tàu cá cho ông Nguyễn Lực là 1.150.000 đồng và tiền dầu hỗ trợ đánh bắt xa bờ ông Lực đưa cho chị Tân là 100.000.000 đồng; tiền bán tàu cá võ gỗ và tài sản trên tàu cho ông Bùi Văn Trọng là 680.000.000 đồng, tiền nhận hỗ trợ tiền dầu đánh bắt xa bờ là 682.000.000 đồng. Tổng số tiền mà chị Tân đang giữ là 2.558.000.000 đồng. Đối với số tiền này anh Mai yêu cầu được chia 2/3 giá trị tài sản là 1.705.332.000 đồng. Đối với căn nhà xây dựng trên đất nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Hảo ở khu dân cư Làng cá Sa Huỳnh là tài sản của cha mẹ anh là ông Nguyễn Mới, bà Trần Thị Thạnh đưa tiền cho anh mua để xây dựng nhà ở chứ không phải tài sản chung của vợ chồng anh. Đối với khoản nợ Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương việt nam 200.000.000 đồng nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng theo hợp đồng thì đây là khoản nợ chung của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhưng chị Tân phải có trách nhiệm trả khoản nợ này vì khi hai vợ chồng anh vay 1.000.000.000 đồng đã không sử dụng nên anh và chị Tân thống nhất trả lại cho ngân hàng. Tuy nhiên chị Tân chỉ trả 800.000.000 đồng còn 200.000.000 đồng chị Tân giữ lại nên chị Tân có trách nhiệm trả cho ngân hàng. Đối với thửa đất 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phú Thạnh thì anh yêu cầu giao cho chị Tân và chị Tân phải thối lại giá trị tiền cho anh. Đối với 02 cái giường, 01 cái bàn, 01 tủ đứng trong nhà xây dựng trên đất nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Hảo là tài sản của cha mẹ anh nên anh không đồng ý chia. Đối với căn nhà của anh Võ Văn Minh và chị Huỳnh Thị Mỹ xây dựng nhầm trên thửa đất 1310 tờ bản đồ số 24 nếu bên nào nhận thì người đó trả lại cho anh Minh, chị Bé.

- Ông Nguyễn Mới và Trần Thị Thạnh (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, là bố mẹ đẻ của bị đơn) trình bày: Năm 2011 vợ chồng ông Mới, bà Thạnh có đưa cho anh Mai số tiền 190.000.000 đồng để mua đất của bà Lê Thị Hảo, khi mua anh Mai để cho bà Hảo viết giấy bán đất đề tên trong giấy chuyển nhượng là Nguyễn Mai và Văn Thị Kim Tân. Khi vợ chồng anh Mai, chị Tân làm nhà thì vợ chồng ông bà có đưa cho anh Mai số tiền 310.000.000 đồng để xây nhà trên thửa đất mua của bà Hảo. Sau khi xây nhà xong vợ chồng ông bà có dọn đến ở cùng với vợ chồng anh Mai, chị Tân tỉnh thoảng mới về nhà cũ.

Vợ chồng ông bà không cho vợ chồng anh Mai, chị Tân tài sản nhà và đất nói trên. Kể từ năm 2011 đến nay vợ chồng ông bà chưa hề có bất cứ văn bản hay tuyên bố bằng miệng về việc sẽ tặng cho vợ chồng anh Mai, chị Tân số tiền 500.000.000 đồng cũng như quyền sử dụng đất mua của bà Hảo. Nay vợ chồng bà yêu cầu tòa án giải quyết, buộc anh Nguyễn Mai, chị Văn Thị Kim Tân trả lại cho vợ chồng ông ngôi nhà và thửa đất nhận chuyển nhượng của bà Hảo tại thôn Thạch By 1, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ cho vợ chồng ông bà.

- Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) trình bày tại đơn khởi kiện yêu cầu độc lập ngày 09/4/2018 và bản tự khai thì ngày 22/8/2016 ông Nguyễn Mai và bà Văn Thị Kim Tân có ký hợp đồng bán lẻ số 855/2016/NHNT-ĐP vay số tiền 1.000.000.000 đồng, với lãi suất là 10,8%/năm. Hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng hai tài sản theo hợp đồng thế chấp tài sản số 468/2016/HĐTC.ĐP ngày 22/8/2016 và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 467/2016/HĐTC.ĐP ngày 22/08/2016.

Trong quá trình vay ông Mai, bà Tân đã trả 800.000.000 đồng và đề nghị ngân hàng rút tài sản thế chấp là tàu cá theo hợp đồng thế chấp số 468/2016/HĐTC.ĐP ngày 22/8/2016 và được Ngân hàng đồng ý. Đối với số dư còn lại được bảo đảm theo hợp đồng thế chấp số 467/2016/HĐTC.ĐP ngày 22/08/2016 là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh.

Hiện nay, ông Mai bà Tân còn nợ của Ngân hàng số tiền 200.000.000 đồng nợ gốc và tiền lãi phát sinh tính đến ngày 12/02/2020 là 19.645.304 đồng. Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam yêu cầu tòa án buộc vợ chồng anh Mai, chị Tân phải trả số tiền vay gốc còn nợ là 200.000.000 đồng và tiền lãi tạm tính đến ngày 12/02/2020 là 19.645.304 đồng, tiền lãi phát sinh cho đến khi thanh toán xong nợ. Nếu anh Mai, chị Tân không trả thì Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 467/2016/HĐTC.ĐP ngày 22/08/2016.

- Ủy ban nhân dân xã Phổ Thạnh (người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan) trình bày: tại công văn số 143/UBND ngày 16/06/2019, nguồn gốc thửa đất mà vợ chồng chị Tân, anh Mai đang ở là thửa đất số 587, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh có nguồn gốc từ đất ao bàu của bà Lê Thị Hảo sử dụng từ năm 1987 đến năm 1993 bà Hảo xây dựng nhà. Năm 2011 bà Hảo có chuyển nhượng một phần thửa đất cho vợ chồng chị Tân, anh Mai để làm nhà. Hiện nay, đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch đất ở đến năm 2020.

Bản án số 01/2020/HNGĐ-ST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Chia cho anh Nguyễn Mai được nhận thửa đất nhận chuyển nhượng của bà Lê Thị Hảo có diện tích 243 m2, thuộc một phần thửa đất số 587, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh (tọa lạc tại: Khu dân cư Làng cá Sa Huỳnh, thôn Thạch By 1, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Có giới cận: phía Đông giáp đường đi; phía Tây giáp thửa đất của bà Lê Thị Hảo, phía Nam giáp đất của ông Nguyễn Khả và Nguyễn Văn Thiệu, phía Bắc giáp đất của bà Lê Thị Hảo và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất. Giá trị tài sản anh Nguyễn Mai nhận được gồm: Giá trị thửa đất là 1.458.000.000 đồng (chưa bao gồm lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), giá trị ngôi nhà cấp IV trên đất là 176.020.380 đồng; giá trị mái hiên sắt, nền gạch bông là 10.705.305 đồng; giá trị tường rào dưới xây gạch, trên gắn lăm bê tông là 13.700.160 đồng; giá trị sân nền gạch là 3.302.000 đồng; giá trị 02 trụ cổng là 3.079.560 đồng và giá trị cây trồng trên đất là 450.000 đồng. Tổng giá trị đất và tài sản gắn liền trên đất là 1.665.257.405 đồng. Có sơ đồ bản vẽ kèm theo là một phần không thể tách rời bản án.

- Chia cho chị Văn Thị Kim Tân được nhận thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi có diện tích 94 m² (tọa lạc khu dân cư Làng cá Sa Huỳnh, thôn Thạch By 1, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi). Có giới cận: phía Đông giáp đường đi; phía Tây giáp mương nước; phía Nam giáp với thửa đất 1311, tờ bản đồ số 24; phía Bắc giáp với thửa đất 1309, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Thửa đất có giá trị là: 1.203.200.000 đồng.

Anh Nguyễn Mai phải thối lại cho chị Văn Thị Kim Tân số tiền 231.028.702 đồng. Anh Nguyễn Mai, chị Văn Thị Kim Tân có nghĩa vụ liên hệ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

(1) Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, 218, 219 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc chia 01 bộ bàn, 02 cái giường, 01 cái tủ đứng. (2) Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, 218, 219 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn anh Nguyễn Mai. (3) Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 217 , 218, 219 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Mới và Trần Thị Thạnh. Hậu quả của việc đình chỉ : Sung công quỹ Nhà nước số tiền 31.579.980 đồng tiền tạm ứng án phí anh Nguyễn Mai đã nộp tại biên lai số AA/2016/0004905 ngày 13/05/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Phổ , tỉnh Quảng Ngãi. Chị Văn Thị Kim Tân, ông Nguyễn Mai, ông Nguyễn Mới và bà Trần Thị Hạnh có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật .(4) Chấp nhận yêu cầu độc lập của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, buộc chị Văn Thị Kim Tân phải thanh toán cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam số tiền vay gốc là 200.000.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 12/02/2020 là 19.645.304 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 855/2016/NHNT-ĐP ngày 22/08/2016 sau ngày 12/02/2020 cho đến khi trả xong các khoản nợ. Trường hợp chị Văn Thị Kim Tân không thanh toán khoản nợ gốc và lãi nêu trên , thì Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự kê biên, phát mãi tài sản bảo đảm cho hợp đồng vay trên là thửa đất 1310 , tờ bản đồ 24 và tài sản gắn liền với đất tại xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng ngãi theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 467/2016/HĐTC.ĐP ngày 22/08/2016. Trường hợp Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 và tài sản gắn liền với đất thì phải thối lại giá trị ngôi nhà cấp IVA cho anh Võ Văn Minh và chị Huỳnh Thị Bé số tiền 199.444.500 đồng. Anh Nguyễn Mai có nghĩa vụ thối lại cho chị Văn Thị Kim Tân số tiền 109.9822.652 đồng theo hợp đồng tín dụng số 855/2016/NHNTĐP ngày 22/08/2016.

Luật sư Nguyễn Duy Hội - Công ty Luật TNHH Everest- Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

- Căn cứ kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đức Phổ

  • Về tố tụng:

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Văn Thị Kim Tân xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia 01 bộ bàn, 02 cái giường, 01 cái tủ đứng. Tuy nhiên, tại phần Quyết định của bản án Tòa án lại “căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, 218, 219 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” để đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn là không phù hợp; Trong trường hợp này phải căn cứ vào khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Bị đơn anh Nguyễn Mai có đơn yêu cầu phản tố và được Tòa án thụ lý giải quyết. Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Mai đến lần thứ hai nhưng anh Mai vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan và cũng không có người đại diện tham gia tố tụng nên theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn anh Nguyễn Mai. Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án Tòa án lại căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ Luật tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của bị đơn anh Nguyễn Mai là áp dụng không đúng pháp luật.

  • Về nội dung:

Tòa án chia cho anh Nguyễn Mai được nhận thửa đất có diện tích 243 m2 thuộc một phần thửa đất số 587, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh và tài sản gắn liền với đất (đất chuyển nhượng của bà Lê Thị Hảo) . Theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án thì thửa đất này chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa có các loại giấy tờ được quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013. Tòa án đã làm việc với UBND xã Phổ Thạnh, đại diện lãnh đạo UBND xã Phổ Thạnh xác định đất này nằm trong khu dân cư Làng cá Sa Huỳnh, không có ai tranh chấp nhưng chưa đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Tuy nhiên án sơ thẩm xác định thửa đất chia cho anh Mai là đất ở và khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ nộp lệ phí là 400.000 đồng/m2; Đồng thời cơ quan thẩm định giá định giá là đất ở là không có thực nên không thể công nhận và áp dụng để chia cho anh Mai được nhận là 1.458.000.000 đồng là không đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự.

- Đối với khoản nợ chị Văn Thị Kim Tân và anh Nguyễn Mai cũng có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam theo Hợp đồng thế chấp số 467/ 2016/HĐTC.ĐP ngày 22/8/2016 số tiền vay gốc còn lại là 200.000.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 12/02/2020 là 19.645.304 đồng. Tại phiên tòa , đại diện Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam thỏa thuận với nguyên đơn Văn Thị Kim Tân nhận trả nợ cho Ngân hàng, anh Nguyễn Mai có nghĩa vụ thổi lại cho chị Văn Thị Kim Tân số tiền 109.982.652 đồng; Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam buộc chị Văn Thị Kim Tân có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp số 467/2016/ HĐTC.ĐP ngày 22/8/2016 số tiền vay gốc còn lại là 200.000.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 12/02/2020 là 19.645.304 đồng.

Theo tài liệu hồ sơ vụ án Tòa án đã thu thập được thì anh Mai phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cùng chị Tân là phù hợp với các Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, trong quá trình Tòa án thu thập chứng cứ anh Mai trình bày vợ chồng không còn khoản nợ này nên không đồng ý trả nợ Ngân hàng cùng với chị Tân; Mặt khác thửa đất số 1310 tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh mà vợ chồng chị Tân, anh Mai đã thế chấp cho Ngân hàng, vợ chồng anh Võ Văn Minh, Huỳnh Thị Bé đã làm nhà trên mảnh đất này; đồng thời anh Mai là người có nghĩa vụ cùng trả nợ cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam nhưng anh Mai không tham gia phiên tòa nên việc thỏa thuận giữa Ngân hàng và chị Tân tại phiên tòa chưa có sự đồng ý của anh Mai. Tuy đại diện Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam đồng ý chị Tân có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo hợp đồng thế chấp tài sản, nhưng trong trường hợp này để đảm bảo quyền lợi của các đương sự trong vụ án thì chỉ khi nào Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1310, tờ bản đồ số 24 xã Phổ Thạnh để thu hồi lại vốn, còn thừa thì chị Văn Thị Kim Tân, anh Nguyễn Mai mới có quyền yêu cầu chia số tiền còn thừa đó.

- Bản án không tuyên xử đối với phần án phí của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; Tuyên chi phí tố tụng không rõ ràng: Ông Nguyễn Mới, sinh năm 1946 bà Trần Thị Thạnh , sinh năm 1948 đến thời điểm xét xử đã trên 60 tuổi và đã có đơn xin miễn giảm án phí. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì ông Mới, bà Thạnh được miễn toàn bộ tiền án phí nhưng tại phần nhận định và phần quyết định của bản án Tòa án không đề cập đến là có sự thiếu sót.

Tại phần quyết định của bản án tuyên xử về chi phí tố tụng: Chị Văn Thị Kim Tân và anh Nguyễn Mai phải chịu 19.200.000 đồng là có sự thiếu sót. Cần phải tuyên Văn Thị Kim Tân và anh Nguyễn Mai mỗi người phải chịu 19.200.000 đồng tiền chi phí tố tụng thì mới phù hợp với tổng số tiền chi phí tố tụng mà các bên phải chịu trong vụ án này. Ngoài ra, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là bà “Trần Thị Thạnh” nhưng trong phần tuyên về phần hậu quả của việc đình chị giải quyết trong bản án lại tuyên “chị Văn Thị Kim Tân , anh Nguyễn Mai, ông Nguyễn Mới và bà Trần Thị Hạnh có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật ”là có sai sót về tên bà “Thạnh” thành tên bà “Hạnh”;

Bản án sơ thẩm số 01/2020/HNGĐ-ST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi (nay là Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) đã vi phạm tố tụng cả nội dung, ảnh hưởng nghiêm trọng quyền và lợi ích của đương sự nên cần hủy toàn bộ để xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, Viện kiểm Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ quyết định: (1) Kháng nghị toàn bộ Bản án sơ thẩm số 01/2020/HNGĐ - ST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ (nay là Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ , tỉnh Quảng Ngãi); (2) Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm số 01/2020/HNGĐ-ST ngày 17/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Phổ (nay là Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ , tỉnh Quảng Ngãi).

Xem thêm:

- Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  • Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hôn nhân được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  • Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  • Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Luật sư Nguyễn Duy Hội

Luật sư Nguyễn Duy Hội

Luật sư Nguyễn Duy Hội là tác giả, cố vấn chuyên môn cho các bài viết tư vấn pháp luật tại website phaptri.vn

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
1.87659 sec| 1092.305 kb