Để xem xét tội hủy hoại tài sản cần xem xét cấu thành của tội phạm này. Cấu thành tội phạm thường được thể hiện thông qua 4 yếu tố cơ bản: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể. Xét về các dấu hiệu cấu thành nên tội phạm như sau:
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, bị tội phạm xâm hại, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Khách thể của tội hủy hoại tài sản của người khác là quan hệ sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản là đối tượng bị hủy hoại hoặc bị cố ý gây hư hỏng.Quan hệ sở hữu là quan hệ pháp luật được pháp luật bảo vệ được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật Dân sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi hủy hoại tài sản. Chủ thể của tội này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định. Năng lực chịu trách nhiệm hình sự bao gồm khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình gây ra và khả năng điều khiển hành vi đó của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó chủ thể của tội hủy hoại tài sản của người khác là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo khoản 2 Điều 12 thì đối với hành vi ở mức độ rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng của tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vẫn phải chịu trách hình sự bình thường
Mặt khách quan bao gồm hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
Hành vi khách quan của tội này được quy định tại Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 đó là hành vi hủy hoại tài sản. Bộ luật hình sự nam 2015 không miêu tả cụ thể về hành vi của tội hủy hoại tài sản. Hủy hoại tài sản được hiểu là hành vi tác động đến tài sản làm cho tài sản đó bị hư hỏng đến mức mất giá trị sử dụng, không thể khôi phục lại nguyên gốc được. Việc hủy hoại tài sản có thể thực hiện dưới dạng hành động thông qua các hành vi đập phá, hay dùng các vật dụng khác để tác động lên tài sản của người khác.
Cần lưu ý rằng chỉ có thể cấu thành tội hủy hoại tài sản nếu đó là tài sản thuộc sở hữu của người khác. Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Nếu là tài sản thuộc sở hữu công của Nhà nước sẽ không thuộc vào tội này mà cấu thành tội phạm khác. Tương tự thì đối với tài sản thuộc sở hữu của mình thì không thể xét vào tội hủy hoại tài sản được
Hậu quả của hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của tội hủy hoại tài sản. Hậu quả là thiệt hại do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra cho quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hậu quả của tội hủy hoại tài sản là thiệt hại về vật chất.
Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả: Tội hủy hoại tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất do vậy hành vi hủy hoại tài sản và hậu quả phải có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hành vi hủy hoại phải là nguyên nhân dẫn đến các thiệt hại vật chất tài sản của chủ sở hữu và ngược lại.
Mặt chủ quan là những biểu hiện bên trong của tội phạm, là thái độ tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm.
Xét về dấu hiệu lỗi thì người phạm tội này được xác định là người có lỗi cố ý trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Nghĩa là bản thân người phạm tội hoàn toàn biết và nhận thức được hành vi hủy hoại tài sản của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được hậu quả mà hành vi của mình sẽ gây ra nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra hoặc cố ý để mặc cho hậu quả đó xảy ra, với mục đích hủy hoại đi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này nhưng trên thực tế có thể xuất phát từ động cơ trả thù, động cơ cá nhân.
Đối với tội hủy hoại tài sản thì hình phạt được áp dụng có thể là hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù.Tù vào mức độ nghiêm trọng mà có thể áp dụng các điều khoản khác nhau cho tội hủy hoại tài sản. Mức phạt tù cao nhất cho tôi này có thể đến 20 năm tù.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm