Ly hôn là quyền cơ bản của con người, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Việc một bên đơn phương ly hôn đối với bên đang bị truy nã không bị hạn chế nhưng lại chưa được pháp luật quy định một cách cụ thể, rõ ràng về căn cứ, trình tự, thủ tục giải quyết.
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, pháp luật tố tụng dân sự trước đây cũng như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không quy định thủ tục giải quyết ly hôn đối với trường hợp người bị kiện, bị đơn đang bị truy nã. Tuy nhiên:
Điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung”.
Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198
Khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/05/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án dân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án có hướng dẫn “Về địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” như sau: “3. Địa chỉ “nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng” của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quy định tại điểm đ, e khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là địa chỉ người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã từng cư trú, làm việc hoặc có trụ sở mà người khởi kiện biết được gần nhất tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh”.
Như đã nêu ở trên, người bị truy nã là người đã bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu và đã được cơ quan có thẩm quyền tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả. Vì vậy, cần xác định, người bị truy nã là người bỏ trốn, cố tình giấu địa chỉ; khi có đơn khởi kiện của bên còn lại đề nghị ly hôn, Tòa án hoàn toàn có thể áp dụng quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại khoản 3 Điều 5 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP để thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về ly hôn theo yêu cầu của một bên:
(i) Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
(ii) Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
(iii) Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Do đó, theo tác giả, khi giải quyết yêu cầu ly hôn với một bên đang bị truy nã, Tòa án căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý phân biệt các trường hợp cụ thể như sau:
Trước khi bị truy nã, có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án giải quyết cho ly hôn không phụ thuộc vào thời gian đã bị truy nã.
Trước khi bị truy nã, không có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án phải xem xét thời gian đã bị truy nã là bao lâu. Tòa án căn cứ vào việc người bị truy nã đã vi phạm nghĩa vụ chung sống với nhau của vợ, chồng quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết. Theo tác giả, trong trường hợp này nên áp dụng việc xác định thời hạn vi phạm nghĩa vụ chung sống của vợ chồng để cho ly hôn tương tự với thời gian biệt tích trong tuyên bố một người bị mất tích. Nghĩa là Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn khi thời gian truy nã từ đủ hai năm trở lên.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm