Nội dung bài viết [Ẩn]
Trong các vụ án hình sự có không ít những hành vi phạm tội liên quan đến thương tích, tổn hại sức khỏe của người bị hại. Để bảo vệ mình và mọi người, chúng ta nên tìm hiểu thật kỹ về cách giám định tổn thương cơ thể trong các vụ án hình sự để tìm hướng giải quyết sau này.
Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật: 19006198
Theo quy định tại Điều 205, 207 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì thời điểm có thể trưng cầu giám định xác định tỷ lệ thương tật bao gồm:
(i) Khi đương sự hoặc người đại diện của họ đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ
(ii) Khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xét thấy cần thiết phải tiến hành trưng cầu giám định. Theo đó, có một số tội cụ thể cần phải tiến hành trưng cầu giám định như sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Tội hành hạ người khác; Tội hiếp dâm
Tỷ lệ tổn thương cơ thể bao gồm: tỷ lệ tổn hại sức khỏe; tỷ lệ thương tật; tỷ lệ thương tích; tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, do bệnh, tật.
Tỷ lệ thương tổn cơ thể được xác định theo % tổn thương cơ thể được quy định chi tiết tại Phụ lục 01 Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 quy định về tỷ lệ thương tổn cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
Cụ thể các tổn thương như sau: Tổn thương cơ thể do di chứng rối loạn tâm thần và hành vi sau chấn thương, vết thương sọ não; Tổn thương cơ thể do tổn thương xương sọ và hệ thần kinh; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tim mạch; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ hô hấp; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tiêu hóa; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ tiết niệu – sinh dục; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ nội tiết; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ cơ – xương – khớp; Tổn thương cơ thể do tổn thương hệ do tổn thương phần mềm; Tổn thương cơ thể do tổn thương bỏng; Tổn thương cơ thể do tổn thương cơ quan thị giác; Tổn thương cơ thể do tổn thương răng – hàm – mặt
Ngoài ra, nếu một người có nhiều vùng bị tổn thương thì việc xác định tỷ lệ % tổn thương có thể được tính theo phương pháp cộng
Bộ Công an, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng cùng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao và Tòa án nhân dân Tối cao vừa hoàn thành Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn về một số hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự và đang trưng cầu các ý kiến đóng góp.
Một trong những nội dung chính của dự thảo là hướng dẫn cách giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Theo đó, khi xảy ra các vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, liên quan đến thương tích, tổn hại sức khỏe của người bị hại, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản xem xét dấu vết thân thể, lập biên bản mô tả về thương tích, chụp ảnh vết thương… để làm căn cứ giải quyết sau này.
Việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể được tiến hành ngay sau khi người bị thương tích hoặc bị gây tổn hại về sức khỏe đã được điều trị ổn định do cơ sở khám, chữa bệnh xác nhận. Cơ quan có thẩm quyền có thể trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể tạm thời đối với người bị thương tích,
Tuy nhiên, cũng theo hướng dẫn này, bị hại hoặc người đại diện của họ có quyền từ chối giám định bằng văn bản. Khi đó, cơ quan điều tra sẽ tiến hành trưng cầu giám định thương tích trên cơ sở hồ sơ bệnh án do cơ sở khám, chữa bệnh cung cấp làm căn cứ tạm thời để giải quyết vụ án.
Dự thảo Thông tư liên tịch cũng hướng dẫn cách xác định tuổi của người tham gia tố tụng. Theo đó, nếu tuổi của người bị buộc tội, bị hại có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc nghi ngờ về tính xác thực thì phải trưng cầu giám định tuổi.
Nếu có tài liệu xác định thời gian sinh hoặc có kết luận giám định tuổi nhưng chưa xác rõ ngày, tháng sinh của người bị buộc tội, bị hại thì xác định theo cách sau:
(i) Nếu xác định được tháng cụ thể, nhưng không rõ ngày nào trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh để xem xét trách nhiệm hình sự.
(ii) Nếu xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không rõ ngày, tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó làm ngày sinh.
(iii) Nếu xác định được cụ thể nửa đầu năm nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa đầu năm thì lấy ngày 30 tháng 6 của năm đó làm ngày sinh.
(vi) Nếu xác định được cụ thể nửa cuối năm nhưng không xác định được ngày, tháng nào trong nửa cuối năm thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh.
(v) Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm