Những vướng mắc trong xử lý tội phạm đánh bạc

Bởi Trần Thu Thủy - 16/12/2019
view 600
comment-forum-solid 0
Đánh bạc (hay cờ bạc, bài bạc, kiếp đỏ đen) là được thua bằng tiền hay một vật có giá trị dựa vào kết quả chưa rõ ràng của một sự kiện với một mục đích có thêm tiền bạc hoặc giá trị vật chất. Phạm vi bài viết này nhằm chỉ ra những vướng mắc còn tồn đọng trong việc xử lý tội phạm đánh bạc.

Về xử lý tiền thu được trên chiếu bạc nhưng không xác định được số tiền này là của ai

Thông thường số tiền mà cơ quan Công an thu được trên chiếu bạc khi tiến hành truy bắt các đối tượng đánh bạc được coi là vật chứng trong vụ án. Việc xử lý vật chứng được thực hiện theo quy định tại Điều 106 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong một số vụ án khi cơ quan Công an tiến hành truy bắt những người đánh bạc thì người đánh bạc thường bỏ lại tiền và chạy trốn. Khi đó, cơ quan Công an sẽ tiến hành thu giữ toàn bộ số tiền mà người đánh bạc bỏ lại trên chiếu bạc. Tuy nhiên, quá trình điều tra, các bị can thường không nhận số tiền mà cơ quan Công an thu giữ trên chiếu bạc là của mình hoặc khai không có bỏ lại tiền trên chiếu bạc. Do đó, Cơ quan Điều tra không xác định được tiền thu trên chiếu bạc là của ai. Như vậy, số tiền này sẽ được xử lý như thế nào trong quá trình giải quyết vụ án.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198

Trường hợp số tiền thu được trên chiếu bạc nhiều hơn số tiền các bị can khai dùng để đánh bạc thì khởi tố các bị can tội đánh bạc theo số tiền thu được trên chiếu bạc hay theo số tiền các bị can đem theo để đánh bạc?

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 1 của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010) thì tiền dùng để đánh bạc là tiền thu được trên chiếu bạc. Cho nên, số tiền thu được trên chiếu bạc trên 50.000.000 đồng nên truy tố các bị can tội đánh bạc theo khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Mặc dù hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 1 của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 thì tiền dùng để đánh bạc là tiền thu được trên chiếu bạc. Tuy nhiên, cơ quan điều tra phải chứng minh được tổng số tiền thu được trên chiếu bạc là của các bị can dùng để đánh bạc. Vì có thể số tiền chênh lệch 3.000.000 không phải là của các bị can hoặc của người khác nhưng người này không tham gia đánh bạc. Do đó, trong trường hợp này theo hướng có lợi cho các bị can thì truy tố các bị can tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015.

Trường hợp, một bị can làm cá cược với nhiều người khác như hình thức: Tài xỉu; bài cào ba lá … thì xác định tiền dùng để đánh bạc như thế nào?

Trường hợp các bị can tham gia đánh bạc với nhai thì việc xác định tiền dùng để đánh bạc không có gì vướng mắc. Tuy nhiên, trường hợp một bị can đánh bạc theo thể thức ăn thua với nhiều người thì việc xác định tiền dùng để đánh bạc như thế nào.

Hiện nay, việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa thì được hướng dẫn tại khoản 5 Điều 1 của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010. Các hình thức đánh bạc khác dạng một người làm cái cược với nhiều người như Tài- Xỉu, bài Cào ba lá … thì không có hướng dẫn nên số tiền dùng để đánh bạc trong vụ án này phải xác định là tiền 55.000.000 đồng. Do đó, cần căn cứ hướng dẫn tại điểm a khoản 3; điểm a khoản 4 Điều 1 của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 truy tố các bị can tội đánh bạc theo khoản 2 Điều 321 BLHS năm 2015.

Tiền thu giữ trong vụ án đánh bạc nhưng chứng minh được không dùng để đánh bạc sẽ do cơ quan điều tra xử lý trong giai đoạn điều tra hay do Tòa án xử lý.

Trong một số vụ án đánh bạc, qua điều tra thì có nhiều trường hợp thu giữ trên người bị can một số tiền nhưng có những số tiền bị can khai không dùng để đánh bạc nên những số tiền này được xác định không phải là tiền dùng để đánh bạc. Tuy nhiên, trong nhiều vụ án, thay vì cơ quan điều tra xử lý trả lại cho bị can số tiền này thì cơ quan điều tra chuyển sang Tòa án. Vậy số tiền thu giữ trong giai đoạn điều tra nhưng chứng minh được bị can không dùng để đánh bạc thì Tòa án có được quyền xử lý không.

Theo Điều 89 BLTTHS năm 2015 thì “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Về thẩm quyền xử lý vật chứng được quy định tại khoản 1 Điều 106 BLTTHS như sau: “Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 90 BLTTHS năm 2015 thì “Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại Kho bạc Nhà nước hoặc cơ quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định tại điểm a khoản này; vật chứng là vi khuẩn nguy hại, bộ phận cơ thể người, mẫu mô, mẫu máu và các mẫu vật khác của cơ thể người được bảo quản tại cơ quan chuyên trách theo quy định của pháp luật”. Như vậy, không phân biệt vụ án là đánh bạc hay nhận hối lộ… BLTTHS năm 2015 quy định rất rõ là vật chứng là tiền thì phải tiến hành giám định ngay. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì có vụ án có tiến hành giám định vật chứng là tiền nhưng cũng có nhiều vụ án đánh bạc, cơ quan tiến hành tố tụng không tiến hành giám định vật chứng là tiền. Vậy việc không giám định vật chứng là tiền có bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vấn đề này rất cần được hướng dẫn để việc áp dụng trong thực tiễn được thống nhất.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.96065 sec| 1014.672 kb