Ngay tại khoản 10, Điều 8 Dự thảo Luật HN & GĐ năm 2000 đã nêu rằng: “Ly thân là tình trạng pháp lý, theo đó vợ chồng không có nghĩa vụ sống chung với nhau do cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của hai vợ chồng”.
Chế định ly thân có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đa số các nước có quy định về ly thân đều ghi nhận ly thân là quyền của vợ chồng nhằm giải quyết mâu thuẫn trong hôn nhân.
Thứ hai, đa số các nước cũng quy định căn cứ ly thân được quy định tương tự như căn cứ ly hôn. Căn cứ ly hôn dựa trên quyết định, xem xét của cơ quan có thẩm quyền khi xét thấy tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Tương tự, vợ chồng ly thân khi đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được như: hai bên không còn thương yêu, quý trọng nhau, có quan hệ ngoại tình, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau nên họ quyết định ly thân như giải pháp hoà giải tạm thời.
Thứ ba, về thủ tục ly thân. Chứng nhận ly thân là văn bản riêng tư mang tính cá nhân, không cần phải nộp cho bất cứ cơ quan Nhà nước nào. Chứng nhận này có thể được hủy bỏ tại bất kỳ thời điểm nào theo sự đồng thuận của hai bên.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý của ly thân. Việc ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật, vợ chồng có quyền thỏa thuận về những hậu quả của ly thân (tình trạng sống tách biệt; quyền, nghĩa vụ về tài sản; quyền, nghĩa vụ đối với con; vấn đề cấp dưỡng cho nhau…) Tuy nhiên, có thể hai bên vẫn có trách nhiệm với nhau một số nghĩa vụ khác như: vẫn có nghĩa vụ trợ giúp lẫn nhau khi ly thân, nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dạy và chăm sóc con chung, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng.
Luật sư tư vấn pháp luật Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198
Chế định ly thân ra đời nhằm thực hiện ba mục đích chính đó là: giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng, tạo căn cứ pháp lý điều chỉnh về nhân thân, tài sản và con trong khi hôn nhân của họ chưa chấm dứt và đảm bảo sự minh bạch, công khai trong các giao dịch dân sự. Vì vậy, ly thân có ý nghĩa sau:
Thứ nhất, ly thân được coi là một phương thức giúp vợ chồng có thêm thời gian nhìn nhận lại mối quan hệ hôn nhân, giảm thiểu những căng thẳng, xung đột gay gắt giữa vợ chồng, để cho các bên có thời gian suy ngẫm, nhìn nhận lại bản thân, hướng tới sự hòa hợp, đoàn tụ.
Thứ hai, chế định ly thân là làm đơn giản hoá thủ tục ly hôn về sau: nếu sau thời gian ly thân mà cặp vợ chồng vẫn quyết định ly hôn thì cần xem bản công chứng về ly thân hay quyết định ly thân của toà án như một bằng chứng về nỗ lực cố gắng hàn gắn của hai bên nhưng không thành. Khi đã có chứng cứ này thì tòa án không nên tiến hành thêm bước hòa giải nữa.
Thứ ba, việc ly thân cũng làm thuận tiện việc hai bên muốn xác lập lại tình trạng sống chung. Bởi khi ly hôn, có thể sau một thời gian các cặp vợ chồng lại thấy vẫn còn tình cảm với nhau, hoặc vì thương con cái mà muốn kết hôn lại. Lúc đó, họ phải làm lại từ đầu. Còn với chế định ly thân, khi suy nghĩ của hai người thực sự chín chắn, vẫn muốn tiếp tục đời sống hôn nhân thì vẫn về sống với nhau một cách dễ dàng.
Nếu không luật hóa chế định ly thân sẽ phát sinh nhiều bất cập vì:
Thứ nhất, không có cơ sở để bảo vệ quyền lợi của các bên khi phát sinh tranh chấp.
Như chúng ta đều biết, ly thân hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của đôi bên và việc thực hiện đúng như những cam kết cũng chỉ xuất phát từ sự tự nguyện đó. Do vậy, khi một trong 2 bên tự ý thay đổi thỏa thuận, gây phương hại đến lợi ích của bên còn lại thì hoàn toàn không có cơ sở để bảo vệ lợi ích của bên bị thiệt hại.
Luật sư tư vấn pháp luật Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 19006198
Thứ hai, pháp luật hiện hành không giúp giải quyết được triệt để vấn đề.
Quy định pháp luật hiện hành cho phép vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2014) và các bên có quyền thỏa thuận về việc không sống chung với nhau (Khoản 2 Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014). Về bản chất đây không phải là những quy định có thể thay thế và giải quyết được về việc ly thân giữa vợ, chồng mà chỉ là những quy định nhằm giúp cho vợ, chồng có sự thuận lợi hơn trong đời sống hôn nhân. Hơn nữa, ly thân về bản chất là chấm dứt đời sống tình cảm chứ không phải chấm dứt về tình trạng tài sản hay không gian sống, nơi sống.
Thứ ba, không có quy định rõ ràng dễ gây xung đột lợi ích giữa những người trong cuộc với quy định của pháp luật.
Khi đã ly thân, vợ hoặc chồng, thông thường sẽ được thoải mái tự do về mặt tình cảm, có thể yêu và sống chung như vợ chồng với người khác, việc này nằm trong thỏa thuận của đôi bên và đôi bên tôn trọng quyền đó của nhau nhưng theo quy định của pháp luật thì hành vi trên lại xem là hành vi vi phạm pháp luật, nhẹ có thể bị xử lý hành chính, nặng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì người vi phạm có thể thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến một năm. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó hoặc làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm (Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm