Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Vì thế nếu người trộm xe máy đã đủ 16 tuổi, sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mình gây ra.
Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Huỳnh Thu Hương – Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Điều 138 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự năm 2015) quy định về tội Trộm cắp tài sản như sau: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”.
Tội trộm cắp tài sản là cấu thành tội phạm vật chất, theo đó, về mặt khách quan: Có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Trên thực tế, hành vi này làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được các quyền năng (gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hay quản lý) đối với tài sản của họ hoặc được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người phạm tội và ngưòi này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật. Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Chủ thể: Là người có năng lực hành vi dân sự.
Vì tội trộm cắp tài sản là cấu thành tội phạm vật chất, như vậy, hành vi phạm tội chỉ hoàn thành khi hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho khách thể. Có nghĩa nó chỉ hoàn thành khi kẻ trộm đã chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, làm chủ được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Đối với hành vi trộm xe máy nếu chủ sở hữu của chiếc xe máy đó đã bắt được người trộm xe, bàn giao cho công an. Tuy nhiên, công an không xử lý thì có hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Người ăn trộm dưới 18 tuổi thuộc vào trường hợp chưa đủ 14 tuổi hoặc đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi thì theo khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: "Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này". Trong khi đó tội trộm cắp tài sản thuộc Điều 138 như vậy trường hợp này sẽ không xử phạt người ăn trộm.
Trường hợp thứ hai: Người ăn trộm đủ 16 tuổi, thì theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật này: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác". Như vậy, trong trường hợp này người ăn trộm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và việc công an không xử phạt với lý do chưa đủ 18 tuổi là không phù hợp với quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào giá trị của chiếc xe máy bị lấy mà kẻ trộm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương xứng. Và ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến 50 triệu đồng tùy vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm