Xóa án tích - pháp luật quy định như thế nào?

Bởi Trần Thu Hoài - 24/05/2020
view 1413
comment-forum-solid 0

Xóa án tích là một chế định quan trọng, cơ bản của pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.

Bài viết được thực hiện bởi: Luật gia Trần Thị Thu Hoài - Công ty Luật TNHH Everest -Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Khái niệm xóa án tích

“Án tích” (trước đây coi đồng nghĩa với "tiền án") là thuật ngữ hay được sử dụng trong chuyên ngành luật Hình sự, nhưng chưa có một văn bản chính thức nào cắt nghĩa rõ ràng khái niệm này. Tuy nhiên có thể viện dẫn quy định trong Nghị quyết số 01-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 1990 để hiểu về khái niệm án tích - tiền án như sau: "Người đã được xóa án thì không coi là có tiền án”.

Xóa án tích là trường hợp người đã bị kết án hình sự, đã chấp hành xong hình phạt và đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật sẽ được coi như chưa bị kết án. Mục đích của chế định xóa án tích nhằm ghi nhận sự nỗ lực cải tạo của người phạm tội nhằm xóa bỏ đi quá khứ đã từng bị kết án của họ, từ đó giúp xóa bỏ thành kiến của xã hội đối với người phạm tội, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.

Các trường hợp xóa án tích

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) quy định các trường hợp được xóa án tích gồm:

Đương nhiên được xóa án tích (Điều 70)

Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI của BLHS (các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) và đáp ứng các điều kiện sau: (i) Đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án; (ii) Từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hết thời gian thử thách án treo, hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định của pháp luật: 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;  05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Về thời hạn để tính đương nhiên xóa án tích, được hiểu chỉ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính và chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án thì mới được áp dụng thời hạn theo quy định để tính đương nhiên xóa án tích. Còn việc hình phạt chính đã tuyên chỉ là căn cứ áp dụng thời hạn để xóa án tích chứ không phải là tính thời hạn để đương nhiên xóa án tích là từ khi chấp hành xong hình phạt chính đã tuyên. Tội phạm mới là bất kỳ loại tội phạm nào cũng như có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Trường hợp, người bị kết án chưa được xóa án tích phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành (Khoản 2 Điều 73 BLHS năm 2015).

Đặc biệt, BLHS năm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP) cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định của BLHS năm 2015.

Theo quyết định của tòa (Điều 71 BLHS năm 2015)

Căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án, Tòa án sẽ ra quyết định xóa án tích với các tội phạm về xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. Điều kiện để được xóa án tích theo quyết định của Tòa như sau: (i) Khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định: 03 năm trong trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm; 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; 07 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội thì được áp dụng thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa; Khi chưa được xóa án tích mà thực hiện hình vi phạm tội mới thì thời hạn xóa án tích được tính lại như ban đầu; (ii) Khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án.

Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội nêu trên (Điều 71 BLHS 2015).Người bị kết án phải có đơn gửi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Nếu xét thấy đủ điều kiện, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định xóa án tích.

Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt

Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của BLHS năm 2015.

Các trường hợp không bị coi là có án tích

Khoản 2 Điều 69 và Điều 107 quy định rõ 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích. Đó là: (1) Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; (2) Người được miễn hình phạt; (3) Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì; (4) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; (5) Người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điểm mới của BLHS năm 2015 ở chỗ: Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ khi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và bị áp dụng hình phạt mới phải mang án tích và đối với họ được áp dụng hình thức xóa án tích đương nhiên. Đối với người đã thành niên thì họ phải mang án tích trong trường hợp bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị kết án do lỗi cố ý về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

Cách tính thời hạn xóa án tích

Cách tính thời hạn xóa án tích được thực hiện theo Điều 73 BLHS năm 2015. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của BLHS năm 2015 căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên. Như vậy, không được căn cứ vào khung hình phạt của tội mà người bị kết án được tuyên mà phải dựa vào hình phạt chính đã tuyên đối với người bị kết án.

Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.

Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó.

Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.

Thủ tục xóa án tích

Theo quy định tại Điều 369 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thủ tục để được xóa án tích được quy định như sau: (i) Với trường hợp đương nhiên được xóa án tích thì thời hạn tiếp nhận và cấp phiếu lý lịch tư pháp không có án tích là 05 ngày; (ii) Với các trường hợp còn lại do Tòa án quyết định.

Theo đó, người bị kết án phải gửi đơn yêu cầu xóa án tích (có nhận xét của chính quyền địa phương hoặc nơi làm việc, học tập). Trong thời gian 13 ngày kể từ ngày nhận được đơn của người bị kết án, Tòa án cấp sơ thẩm phải ra quyết định xóa án tích hoặc quyết định bác đơn xin xóa án tích.

Trong trường hợp người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm mới được xin xóa án tích.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Trần Thu Hoài

Trần Thu Hoài

https://everest.org.vn/chuyen-vien-tran-thu-hoai "Chuyên viên Trần Thị Thu Hoài tham gia Công ty Luật TNHH Everest từ năm 2020 đến nay. Các vụ án nổi bật Chuyên viên Trần Thị Thu Hoài đã trực tiếp tham gia và hỗ trợ: Thu hồi đất nông nghiệp của các hộ dân tại Cát Hải, Hải Phòng. "

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.18879 sec| 1058.43 kb