Những trường hợp bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện

view 360
comment-forum-solid 0
Sau khi các cá nhân, tổ chức gửi đơn khởi kiện đến, Tòa án phải có trách nhiệm tiếp nhận và xem xét việc thụ lý hay trả lại đơn. Đối với các vụ án dân sự, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện khi phát sinh một trong các trường hợp.

Luật sư tập sự Nguyễn Thị Mai - Công ty Luật TNHH Everest, Tổng đài tư vấn: 1900.6198

- Người khởi kiện không có quyền hoặc không có đủ năng lực hành vi 

Cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không bị ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp thì không có quyền khởi kiện vụ án dân sự. Trừ các trường hợp sau:

1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

2. Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật.

3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

4. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật.

5. Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Ngoài ra, người khởi kiện phải là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, nếu người khởi kiện không đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự (người được Tòa án ra quyết định mất năng lực hành vi, người chưa đủ 18 tuổi không có người đại diện hợp pháp,...) thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo quy định.

- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện 

Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp Bộ luật Tố tụng dân sự và các luật khác có quy định về các điều kiện để cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.

Ví dụ: Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 01 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 02 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.

2. Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.

- Hết thời hạn quy định mà không nộp biên lai tạm ứng án phí

Theo quy định tại khoản 2 Điều 195 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.

Nếu hết thời hạn nêu trên mà cá nhân, tổ chức khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí thì Tòa án có quyền trả lại đơn trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.

- Không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật thì các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.

Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức, cá nhân không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp thì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Tuy nhiên, khi xét thấy vụ việc dân sự đã được thụ lý không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khác cùng cấp hoặc khác cấp thì Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự sẽ ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý. Trong trường hợp này, Tòa án không trả lại đơn khởi kiện cũng như tạm ứng án phí mà đương sự đã đóng. Đồng thời, Tòa án phải ra văn bản thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết.

- Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn theo yêu cầu

Khi nội dung đơn khởi kiện không có đủ các nội dung theo quy định của pháp luật, Thẩm phán phụ trách sẽ yêu cầu nguyên đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong một thời hạn do Thẩm phán ấn định nhưng không được vượt quá một tháng. Nếu quá thời hạn này mà nguyên đơn không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán sẽ trả lại đơn khởi kiện.

- Người khởi kiện rút đơn khởi kiện

Khi đã nộp đơn xin ly hôn và được Tòa án thụ lý, vợ hoặc chồng là nguyên đơn vẫn có quyền rút lại đơn khởi kiện vào bất kỳ lúc nào (trừ trường hợp nguyên đơn rút đơn tại phiên tòa phúc thẩm thì phải được sự đồng ý của bị đơn). Lúc này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và đình chỉ vụ án nếu Tòa án đã thụ lý.

Khi thuộc một trong những trường hợp trên, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn, đồng thời ra văn bản trả nêu rõ lý do Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Khi đó, Tòa án hoặc sẽ không thụ lý đơn khởi kiện hoặc nếu đã thụ lý thì sẽ tiến hành đình chỉ vụ án.

– Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Luật sư Nguyễn Thị Mai

Luật sư Nguyễn Thị Mai

https://everest.org.vn/luat-su-nguyen-thi-mai Luật sư Nguyễn Thị Mai là chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn dân sự, lao động, đất đai, hôn nhân gia đình.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.83125 sec| 1050.688 kb