Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp do luật định. Theo quy định của pháp luật, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam cần phải tuân thủ các thủ tục chặt chẽ.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế đáng kể quyền tự do thân thể của công dân.
Mục đích của tạm giam là nhằm ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án được tiến hành đúng đắn.
Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật 1900.6198
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của BLTTHS, bao gồm bị can bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.
Căn cứ Điều 119 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017, chủ thể bị áp dụng biện pháp tạm giam có thể là:
Lưu ý: không áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: (i) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; (ii) Tiếp tục phạm tội; (iii) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; (iv) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Trong trường hợp Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra áp dụng biện pháp tạm giam thì lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét phê chuẩn hay không phê chuẩn lệnh tạm giam trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam.
Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm