Khái quát về miễn trách nhiệm hình sự

Bởi Trần Thu Thủy - 03/01/2020
view 718
comment-forum-solid 0
Miễn trách nhiệm hình sự là chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Bản chất pháp lý của chế định này là hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm khi có các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, tức là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của Nhà nước căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.

Thực hiện những quy định này nhằm tiết kiệm việc áp dụng chế tài của luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Áp dụng đúng chế định này có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bài viết này sẽ bàn về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam với những nội dung như: Khái niệm, bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự, nội dung trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, vấn đề đặt ra khi áp dụng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự.

 Khái niệm, bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự

Miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã thực hiện tội phạm, nhưng do đáp ứng các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó. Miễn trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1985, từng bước được hoàn thiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là một chế định phản ánh nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước, tiết kiệm chi phí, công sức... trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; tăng cường khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội thông qua các hình thức trách nhiệm hình sự được thực hiện ngoài cộng đồng, nhưng vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự, nhưng do người này có các điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự. Đó chính là chính sách phân hóa được phản ánh trong luật từ thực tiễn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục người phạm tội. Tuy vậy, vì người được miễn trách nhiệm hình sự bị coi là người đã thực hiện hành vi phạm tội, do đó, mặc dù họ được miễn trách nhiệm hình sự, nhưng không được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009[1]. Nghiên cứu các Bộ luật Hình sự Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy, người được miễn trách nhiệm hình sự không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội, nhưng có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự được quy định trong các ngành luật khác[2].

Nội dung trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 

Miễn trách nhiệm hình sự được quy định trong các Bộ luật Hình sự với các trường hợp khác nhau được quy định rải rác trong cả Phần chung và Phần các tội phạm. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự tại Điều 16, Điều 29, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, đoạn 2 khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390. Trong các trường hợp này, khoản 3 Điều 29 là một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự mới được bổ sung vào Bộ luật Hình sự năm 2015 với quy định: “Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự được bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 để đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử và đáp ứng yêu cầu đấu tranh, xử lý tội phạm, tiết kiệm chi phí tố tụng và hiện nay, pháp luật các nước cũng đã quy định trường hợp này (ví dụ: Điều 76 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010[3]).

Điều kiện để một người có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi: (i) Tội phạm mà người đó thực hiện là tội ít nghiêm trọng do vô ý; (ii) Hậu quả là gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác; (iii) Người phạm tội được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đây mới là các điều kiện cần, còn việc miễn trách nhiệm hình sự hay không còn thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, căn cứ vào yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội, cũng như tình hình an ninh, trật tự và nhân thân người phạm tội để quyết định.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hình sự được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

TVQuản trị viênQuản trị viên

Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm

Trả lời.
Thông tin người gửi
Bình luận
Nhấn vào đây để đánh giá
024 66 527 527
0.71405 sec| 998.656 kb