Thời hạn là một khái niệm khá quen với đời sống xã hội hàng ngày. Tuy nhiên, sẽ có nhiều cách hiểu và tính thời hạn khác nhau. Để thống nhất các tính thời hạn trong áp dụng quy định pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự đã có quy định cụ thể.
Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật dân sự, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198
Thời hạn là một khái niệm được nhắc lại khá nhiều trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Đa phần thời hạn dùng trong các quy định liên quan đến trách nhiệm hình sự của cá nhân. Thế nhưng pháp luật về Hình sự hiện hành không đưa ra khái niệm về thời hạn, mà chỉ được nêu trong pháp luật về Dân sự tại Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, thời hạn là một khoảng thời gian được xác định giữa hai thời điểm.
Xét theo nguyên tắc tương tự pháp luật, định nghĩa thời hạn trong pháp luật hình sự tương tự như trong Bộ luật Dân sự.
Mặc dù không định nghĩa khái niệm thời hạn, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã đưa ra các quy định để xác định thời hạn nhằm thống nhất cách tính thời hạn, tránh gây nhầm lẫn và bảo vệ quyền lợi của cá nhân chịu trách nhiệm hình sự.
Theo Điều 134 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn được tính theo giờ, ngày, tháng, năm với các nguyên tắc sau:
Thời hạn khi được pháp luật quy định sẽ được xem là thời hiệu. Khi đó, cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cũng sẽ như cách tính thời hạn được quy định.
Theo Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người bị tạm giữ với thời hạn không quá 03 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
Trong trường hợp cần gia hạn thời hạn tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ tối đa hai lần với thời hạn của mỗi lần là không quá 03 ngày.
Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
Theo Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn điều tra tính từ khi khởi tố vụ án cho đến thời gian tương ứng từng mức độ nghiêm trọng, cụ thể:
Theo Điều 70 Bộ luật Hình sự hiện hành, thời hạn được xóa án tích dựa vào loại tội phạm khác nhau, cụ thể:
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành một số hình phạt bổ sung gồm quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn được nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
Theo Điều 36 Bộ luật Hình sự hiện hành, thời hạn cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng.
Trong trường hợp người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
Theo khoản 1 Điều 36 Bộ luật Hình sự hiện hành, hình phạt tù có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.
Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.
TVQuản trị viênQuản trị viên
Xin chào quý khách. Quý khách hãy để lại bình luận, chúng tôi sẽ phản hồi sớm